TƯ VẤN SỨC KHỎE1900.8909

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Giúp trẻ theo kịp tốc độ phát triển bình thường

Khi thời tiết giao mùa, cùng với khí hậu ngày càng khắc nghiệt, tình trạng ô nhiễm môi trường, khói, bụi, thực phẩm không an toàn gia tăng,  làm cho trẻ thường mắc các bệnh viêm nhiễm như: viêm đường hô hấp, ho, viêm họng, sổ mũi, sốt, tiêu chảy…Tình trạng này xảy ra không chỉ ở trẻ có độ tuổi khác nhau, mà còn lặp lại liên tục quanh năm. Việc trẻ hay ốm vặt ngày nay đang xảy ra thường xuyên ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển bình thường của trẻ, gây nên chứng biếng ăn, chậm lớn, còi xương, suy dinh dưỡng.  Khi ốm trẻ thường ít ăn, không ăn, ngoài ra việc hấp thu và chuyển hóa dinh dưỡng cũng giảm theo.
Trẻ phát triển bình thường là trẻ không/ít ốm vặt, chỉ số cơ thể và chỉ số trí tuệ đạt ở mức trung bình trở lên
Sau đây là một số thống kê:
-Theo nghiên cứu cho thấy, trẻ biếng ăn có nguy cơ thua kém 6%-22% chỉ số cơ thể BMI (Body Mass Index) so với trẻ ăn uống bình thường.
-Chỉ số phát triển trí tuệ MDI (Mental Developmental Index) của những trẻ biếng ăn chỉ đạt trung bình 96 điểm, thấp hơn 14 điểm so với những bé ăn uống bình thường (110 điểm).
-Ngoài ra, trẻ biếng ăn còn bị suy giảm hệ miễn dịch dẫn đến việc càng hay mắc các bệnh như cảm cúm, viêm nhiễm đường hô hấp,… và thường tần suất ốm đau gặp phải nhiều lần hơn so với trẻ bình thường cùng lứa.
- Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Hơn 50 % trẻ em Việt Nam thiếu vi chất,  hiện vẫn còn khoảng 1/3 trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi. Nguyên nhân của tình trạng này là do bé bị “đói” các vi chất dinh dưỡng cần thiết để tăng trưởng, phát triển chiều cao…
*Như vậy những trẻ biếng ăn, trẻ có sức đề kháng kém, khả năng hấp thu & chuyển hóa dinh dưỡng không tốt  dẫn đến trẻ sẽ chậm lớn, suy dinh dưỡng, còi xương, thiểu năng trí tuệ...
Để trẻ phát triển bình thường chúng ta cần:
1-Giúp trẻ tăng cường hệ miễn dịch, tăng sức đề kháng: Có như vậy trẻ sẽ ít ốm đau khi thời tiết và các điều kiện bên ngoài thay đổi, từ đó đảm bảo việc ăn uống của trẻ được duy trì tốt
2-Giúp trẻ ăn ngon, ăn đủ, tiêu hóa và hấp thu tốt,  đảm bảo cung cấp đủ các thành phần dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển .
3-Bổ sung các vi chất dinh dưỡng  thiết yếu mà  chế độ ăn uống bình thường hay bị thiếu hụt.
Để hỗ trợ toàn diện cho trẻ, giúp trẻ phát triển bình thường,  Công ty cổ phần Y Dược Pháp Âu kết hợp cùng nhà sản xuất Meliphar  nghiên cứu và  mới đây đã cho ra đời sản phẩm Cốm BabySmile hoàn toàn mới với các thành phần hỗ trợ đặc biệt theo 3 nhóm:
β –Glucan (chiết xuất từ thành tế bào nấm men), Thymomodulin (tinh chế từ hormone tuyến ức Bê), kẽm, selen hữu cơ, lysine, vitamin A, E:  Hỗ trợ miễn dịch, tăng sức đề kháng, giúp trẻ phòng ngừa bệnh tật, hỗ trợ cải thiện đáng kể các trường hợp nhiễm khuẩn đường hô hấp như viêm họng, viêm phế quản, cảm cúm, sổ mũi, ho kéo dài, nhiễm khuẩn tái phát đường hô hấp và các nhiễm khuẩn khác.
Protease, Lysin, Kẽm, tinh chất men bia (chứa 18 acid amin và các nguyên tố vi lượng Zn, Fe, Cu…), Vitamin B1, B2,B6, B9: Giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn khỏe, tăng chuyển hóa và hấp thu dưỡng chất, phục hồi sức khỏe sau ốm.
Canxi, vitamin D3, Tau rin và các dưỡng chất:  cung cấp vi chất dinh dưỡng, hỗ trợ , thúc đẩy sự phát triển chiều cao, cân nặng, giúp trẻ khỏe mạnh và theo kịp sự phát triển của trẻ bình  thường.
Theo suckhoedoisong
Trên đây là một số thông tin tham khảo về sức khỏe. Để biết thêm thông tin về sức khỏe, tâm lý các bạn hãy gọi điện tới tổng đài chăm sóc sức khỏe trực tuyến 19008908 hoặc 19008909 để nhận được hỗ trợ từ các chuyên gia.
- See more at: http://www.cachchuabenh.net/suc-khoe-tre-em/giup-tre-theo-kip-toc-do-phat-trien-binh-thuong-n62-3922#sthash.ZgTzm5gV.dpuf



Tags: triệu chứng hivtriệu chứng hiv giai đoạn đầutrieu chung ban dau cua hiv


Tin liên quan:

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Cảnh giác với các bệnh mùa hè trẻ thường mắc phải

Chuẩn bị bước vào mùa hè, bạn nên cẩn thận phòng tránh một số bệnh cho trẻ nhỏ vì đây là đối tượng dễ bị lây nhiễm bệnh mỗi khi thời tiết chuyển mùa. 


Say nắng

Triệu chứng: Trẻ sốt cao, da nóng khô, không có mồ hôi, buồn ngủ, nhịp mạch tăng, lú lẫn rồi bất tỉnh…

Cách xử lý: Khi trẻ có biểu hiện trên, bạn phải đưa trẻ vào chỗ mát và cởi quần áo ngoài của trẻ. Dùng nước ấm lau toàn thân và đắp khăn mát lên trán trẻ, lưu ý không nên tìm cách hạ nhiệt nhanh cho trẻ bằng nước lạnh. Vì khi da gặp lạnh, các lỗ chân lông thu hẹp lại sẽ khiến cơ thể khó tản nhiệt hơn. Nếu trẻ vẫn còn tỉnh táo, bạn có thể cho trẻ uống một ly nước chanh đường hoặc cam tươi. Nếu thân nhiệt trẻ không hạ vẫn sốt cao cần đưa ngay trẻ đến các trung tâm y tế tránh hiện tượng bị co giật. 


Rôm sảy

Thường xảy ra đối với trẻ nhỏ dưới 3 tuổi, nguyên nhân do khi cơ thể trẻ quá nóng, da sẽ phản ứng lại bằng cách tiết ra nhiều mồ hôi và mọc rôm sảy. Việc dùng tã lót cho trẻ một cách thiếu cẩn thận, không thay mới thường xuyên cũng có thể khiến trẻ bị rôm.

Bạn nên cho trẻ mặc những loại quần thoáng mát, để hở vai. Chất vải may đồ nên chọn loại thấm mồ hôi là vải sợi thiên nhiên hoặc cotton. Nên thay quần áo thường xuyên cho trẻ, đồng thời cũng cần lau mát để tránh mồ hôi ứ đọng trên da trẻ. Không nên thoa các loại kem có chất mỡ, nhờn lên da trẻ bởi điều đó sẽ làm tắc các lỗ chân lông trên da, da sẽ tấy thêm và sẽ bị ngứa ngáy nhiều hơn. 


Mụn nhọt

Vào mùa hè nếu không giữ gìn vệ sinh da tốt, trẻ rất dễ bị mụn nhọt. Mụn nhọt ở mức độ nhẹ có thể tự khỏi và không ảnh hưởng tới cơ thể, không gây nguy hiểm, nếu bị nặng hơn, mụn nhọt có thể gây ra hiện tượng đau nhức, sốt, trẻ biếng ăn, hay bứt rứt, phải đưa trẻ đi khám bác sĩ khám, có thể chích mụn để thoát lưu mủ.

Cần thường xuyên tắm rửa sạch sẽ và gội đầu cho trẻ. Tránh cho trẻ nghịch ngợm với đất, cát và cho trẻ uống thật nhiều nước rau, quả để tăng sức đề kháng. Không nên tự ý nặn mụn hoặc bôi thuốc lên mụn khi chưa có chỉ định của bác sỹ vì có thể sẽ gây 




Bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa tăng nhanh
Theo các bác sĩ, sở dĩ cứ vào mùa nắng, trẻ thường có nguy cơ bị bệnh về đường hô hấp và tiêu hóa, ngoài nguyên nhân môi trường ô nhiễm, điều mà các bậc phụ huynh cần chú ý là vào mùa nóng, trẻ thường bị mất nước, nhưng chúng không chủ động được trong việc bù nước cho cơ thể (trẻ nhỏ không tự lấy nước uống, không biết kêu khát...). Sau một hai ngày thiếu nước trẻ sẽ bị hiện tượng tiểu ít, niêm mạc khô và sau đó sẽ bị sốt, ho... Do vậy, phụ huynh cần chú ý cho trẻ uống nhiều nước.
Khi phát hiện trẻ đi phân lỏng (hoặc nước) trên 3 lần/ngày thì cần bù nước và chất điện giải ngay bằng cách cho uống Oresol. Nếu không có Oresol thì thay bằng nước muối đường, nước cháo muối...
Đưa trẻ đến cơ sở y tế khi bệnh không giảm trong 3 ngày hoặc có kèm theo: ói mửa nhiều, sốt, khát nước nhiều, ăn uống kém, có máu trong phân (phân đen).
Đặc biệt, cha mẹ cần lưu ý không được lạm dụng thuốc kháng sinh cho trẻ bởi việc tùy tiện uống thuốc không theo đơn sẽ gây nhiều hậu quả khó lường.
Ngoài ra, để đề phòng tiêu chảy, người dân nên ăn uống những thức ăn nấu chín, hợp vệ sinh, sử dụng nước sạch. 

Cảnh giác cao với viêm não và sốt xuất huyết
Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), viêm não và sốt xuất huyết là hai bệnh mùa hè đáng ngại nhất. Năm ngoái, dịch sốt xuất huyết đặc biệt tăng mạnh ở khu vực TP.HCM và các tỉnh phía Nam .
Theo các bác sĩ, sốt xuất huyết thường rải đều cả năm, đặc biệt vào mùa mưa nhưng không vì thế mà người dân chủ quan bởi mùa hè nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ có nguy cơ bùng phát thành dịch lớn.
Nên nghi ngờ trẻ bị bệnh nguy hiểm này khi sốt cao đột ngột 39 - 40 độ C liên tục trong 2 - 3 ngày. Đến ngày thứ 3 - 4, trẻ có thể chảy máu cam, chảy máu chân răng, chảy máu dưới da (gọi là nổi ban xuất huyết), nặng hơn nữa có thể ói ra máu, đi tiêu ra máu. Lưu ý các dấu hiệu nặng như li bì, vật vã, chân tay lạnh, tiểu ít hoặc không tiểu để đưa đi cấp cứu.
Trong sốt xuất huyết, lúc nhiệt độ giảm cũng là lúc trẻ bị sốc, trụy tim mạch, nếu không chữa trị kịp thời sẽ nguy hiểm.
Riêng bệnh viêm não, để tránh nguy cơ bị bệnh cho trẻ, gia đình chú ý nên đưa trẻ em đi tiêm phòng viêm não Nhật Bản theo đúng quy định. Theo các bác sĩ chuyên khoa nhi, giai đoạn đầu của sốt do virus với sốt dẫn đến viêm não là gần như giống nhau. Sốt virus từ 5 - 7 ngày thì tự hết, còn sốt chưa rõ nguyên nhân thì rất nguy hiểm. Nếu đã bị bệnh phải nghỉ ngơi, uống nhiều nước, đặc biệt với trẻ bị sốt phải uống đủ nước thì cơ thể mới tuần hoàn tốt và nhanh hạ sốt.


Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Phòng ngừa các bệnh đường hô hấp cho trẻ khi giao mùa

Giữ ấm khi đi ra ngoài vào buổi tối hoặc sáng sớm, hạn chế tiếp xúc với người bị cúm, tránh ăn đồ lạnh, bổ sung vitamin và khoáng chất... là một số cách phòng ngừa bệnh về hô hấp cho trẻ.
1.jpg
Nhiệt độ thay đổi thất thường là thời điểm thuận lợi làm bộc phát các bệnh ở trẻ, nhất là ở những bé có hệ miễn dịch yếu, dẫn đến tỷ lệ trẻ mắc các bệnh về đường hô hấp gia tăng. Trong thời gian này, các mẹ nên mặc cho bé áo khoác bên ngoài vì đến buổi trưa khi trời nắng nóng các con có thể cởi bỏ áo khoác. 
Một số bênh các bé thường gặp khi giao mùa
Cúm: Trẻ em là nhóm mắc căn bệnh này nhiều do hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện khiến virus cúm dễ dàng gây bệnh. Triệu chứng thường thấy như sốt nhẹ, có thể ớn lạnh, đau đầu, chóng mặt, ho, đau họng, nghẹt mũi, chán ăn, đặc biệt là hắt hơi nhiều và chảy nước mũi trong. Tùy theo sức đề kháng của cơ thể mà thời gian bệnh kéo dài hay rút ngắn, giảm nhẹ hoặc nghiêm trọng hơn. Thậm chí, một số bệnh cúm diễn tiến nhanh và ồ ạt có thể khiến tử vong.
Viêm họng cấp tính: Bệnh thường xảy ra vào mùa đông, gặp cả ở người lớn và trẻ em. Triệu chứng đầu tiên là đau họng khi nuốt, sốt, khàn tiếng, ho do bị kích ứng ở đường hô hấp trên, có thể kèm theo sổ mũi. Nguyên nhân gây bệnh thường thấy do loại vi khuẩn, có nhiều trường hợp do virus. Nếu không được chữa trị hiệu quả, bệnh có thể dẫn đến viêm phổi, viêm khớp, biến chứng tại cơ tim và van tim. Cha mẹ nên quan tâm đúng mức sức khỏe của trẻ, cần thiết phải cho trẻ đi thăm khám bác sĩ chuyên khoa khi có triệu chứng như sốt cao, trẻ li bì, ho nặng tiếng.
Viêm phế quản, biến chứng viêm phổi: Viêm phế quản có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào, thường sau khi thay đổi thời tiết hoặc bị viêm họng, viêm mũi do không chữa trị hiệu quả kịp thời hoặc theo diễn tiến của bệnh... Nhiều trường hợp trẻ mắc bệnh chỉ sổ mũi trong, ho nhẹ nhưng có thể giảm tính hiếu động ở trẻ. Nếu tình trạng này kéo dài, không điều trị đúng, trẻ dễ bị nhiễm trùng lan rộng và sâu hơn vào phế quản phổi, phế nang và nhu mô phổi rất nguy hiểm với các triệu chứng sốt cao, ho khạc, ho đàm đặc, có màu xanh hoặc vàng, nằm li bì.
Vì vậy, cha mẹ không nên xem nhẹ những căn bệnh này và quan tâm đúng mức sức khỏe của trẻ, cần thiết phải cho bé đi thăm khám bác sĩ chuyên khoa khi có triệu chứng như sốt cao, trẻ li bì, ho nặng tiếng. 
Một số cách phòng ngừa bệnh:
Giữ ấm cho trẻ khi thời tiết trở lạnh, nhất là khi đưa trẻ đi chơi ngoài trời vào buổi tối hoặc sáng sớm, ở các vị trí quan trọng như bàn chân, bàn tay, ngực, cổ, đầu.
Hạn chế cho trẻ tiếp xúc với người có biểu hiện bị cúm, viêm đường hô hấp.
Cho trẻ uống nước ấm, tránh ăn những thức ăn lấy trực tiếp từ tủ lạnh, kem, đá.
Giữ gìn vệ sinh sạch sẽ cho trẻ nhất là trước khi ăn, sau khi đùa nghịch, đi vệ sinh.
Tăng cường dinh dưỡng với thực đơn cân đối của các nhóm dưỡng chất (tinh bột, chất đạm, chất béo và rau củ quả).
Bổ sung đầy đủ vitamin và khoáng chất cho trẻ đặc biệt kẽm, selen - đây là những dưỡng chất quan trọng vừa giúp trẻ phát triển hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần cũng như hệ miễn dịch cho trẻ. Hai vi chất kẽm và selen có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường sức đề kháng, cải thiện hệ miễn dịch cho trẻ nhỏ. Các bé với hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, còn yếu và non nớt rất dễ bị tấn công bởi các yếu tố bên ngoài vì vậy các mẹ ngoài việc giữ ấm, tránh cho trẻ tiếp xúc với người ốm… cũng cần bổ sung cho trẻ đầy đủ dưỡng chất, vitamin để tăng cường hệ miễn dịch, giảm tình trạng ốm vặt ở trẻ. Mẹ có thể bổ sung kẽm, selen cho các bé thông qua thực phẩm hàng ngày như: hải sản (sò, tôm đồng…), thịt màu đỏ ( thịt lợn, thịt bò..), trứng, sữa đậu nành… Tuy nhiên nếu bữa ăn không đảm bảo đầy đủ thì các mẹ có thể bổ sung thông qua thực phẩm bổ dưỡng.

Nguồn cachchuabenh.net

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Trẻ mọc răng- Những điều cần biết

Mọc răng là giai đoạn khá đặc biệt trong quá trình phát triển của trẻ. Giai đoạn này đánh dấu sự “lớn khôn” của cơ thể trẻ để dần thích nghi với môi trường sống, nhưng việc mọc răng cũng báo trước một số rắc rối có thể xảy ra đối với sức khỏe của trẻ.

Phụ huynh cần chú ý những thay đổi về sức khỏe của trẻ trong thời kỳ trẻ mọc răng để có cách chăm sóc trẻ tốt hơn, nhất là việc ăn uống và ngủ nghỉ của trẻ nhằm đảm bảo tối ưu sự tăng trưởng và phát triển của trẻ.
Mốc giai đoạn trẻ mọc răng
Thời kỳ mọc răng sữa của bé bắt đầu trong khoảng từ 5 - 8 tháng tuổi. Không có mốc chuẩn cụ thể nào quy định cho thời gian mọc răng sữa của trẻ, một số trẻ mọc sớm lúc 3 - 4 tháng tuổi; có trẻ mọc răng lúc 6 - 7 tháng tuổi và một số trẻ có thể muộn hơn.
Việc mọc răng nhanh hay chậm vài tháng là điều hoàn toàn bình thường. Thậm chí, có trẻ sinh ra đã có sẵn 1 hoặc 2 chiếc răng rồi gọi là răng sơ sinh. Giới hạn của tuổi mọc răng đầu tiên là từ lúc sinh tới 1 tuổi. Răng đầu tiên trung bình mọc vào 6 - 8 tháng tuổi. Hai răng cửa hàm dưới sẽ mọc đầu tiên; sau đó các răng khác sẽ tuần tự mọc.
Hai răng hàm thứ hai của hàm trên sẽ là những răng mọc cuối cùng. Răng thường mọc theo từng cặp, cụ thể như răng nanh hàm dưới ở bên phải và bên trái sẽ mọc cùng lúc. Răng hàm dưới thường mọc sớm hơn răng tương ứng ở hàm trên.
Bộ răng sữa của trẻ gồm có tất cả 20 răng, 10 ở hàm trên và 10 ở hàm dưới.
Những dấu hiệu gợi ý trẻ đang mọc răng
Khi mọc răng, trẻ thường có một số rối loạn trong cơ thể, trẻ có thể mệt mỏi, quấy khóc, hay mè nheo, ít ngủ, dễ bị kích động khi mọc răng, như: bứt rứt khó chịu trong người nên hay làm nũng cha mẹ.
Một số trẻ hay bị chảy nhiều nước miếng và thường gặm thứ gì đó trong miệng cũng là những biểu hiện thường thấy. Khi dồn năng lượng cho việc mọc răng, sức bảo vệ cơ thể yếu đi nên trẻ dễ bị bệnh, bị rối loạn tiêu hóa. Vào thời kỳ này hoặc sớm hơn, trẻ thường bị sốt nhẹ và đôi khi kèm đi tiêu phân lỏng, dân gian thường gọi là tướt mọc răng.
Trước khi răng nhú lên, nướu có thể bị sưng, viêm tấy đỏ, có khi bị loét. Nướu sưng đỏ làm trẻ luôn có cảm giác ngứa ngáy, khó chịu tại chỗ răng nhú lên, trẻ thường cho ngón tay, đồ chơi hay bất kỳ đồ vật gì có trong tay vào miệng để cắn, những triệu chứng này thường xảy ra trước khi răng nhú lên 3 - 5 ngày. Ngoài ra, để răng mọc được, nướu phải nứt ra gây đau đớn cho trẻ và rất có thể bị nhiễm trùng vùng răng miệng. Những triệu chứng này khiến trẻ thường quấy khóc nhiều hơn và ăn uống kém, thậm chí trẻ có thể bị sụt cân.
Các dấu hiệu này thường xuất hiện rồi tự hết trong vòng 3 - 7 ngày. Tất cả những biểu hiện đó chỉ là quá trình sinh lý bình thường ở trẻ.
Những chăm sóc cần thiết khi trẻ mọc răng
Có thể làm dịu sự khó chịu cho trẻ tạm thời bằng cách cho một vật nhẹ, mềm để trẻ cắn lên (như vòng mọc răng, ngậm núm vú giả bằng cao su). Nếu cảm thấy trẻ bị đau dữ dội gây khó khăn cho việc ăn uống và sinh hoạt của trẻ, phụ huynh nên đưa trẻ đến bác sĩ chuyên khoa Răng - Hàm - Mặt.
Nếu trong thời gian mọc răng sữa, trẻ sốt cao 38,50C trở lên và đau nhiều, có thể dùng paracetamol để hạ sốt và giảm đau, liều lượng 10 - 15mg/kg cân nặng, cứ 4 - 6 giờ cho uống một lần. Không được để trẻ sốt quá cao. Nếu trẻ sốt nhẹ hơn thì không cần uống thuốc hạ sốt, chỉ cần lau ấm cho trẻ và cho uống thêm nước.
Trẻ mọc răng thường chảy nước miếng nhiều, thường đưa tay vô miệng cắn hoặc dùng lưỡi liếm vùng nướu phía trước. Cần chú ý giữ vệ sinh răng miệng cho trẻ thật tốt. Thường xuyên lau sạch nước miếng chảy quanh miệng trẻ bằng khăn mềm sạch, làm sạch nướu sau khi cho trẻ bú hoặc ăn. Dùng một miếng gạc hoặc vải mềm nhúng nước sạch quấn quanh ngón tay lau thật nhẹ nhàng. Nên cho trẻ uống nước lọc sau khi bú hoặc sau khi cho trẻ ăn.
Chú ý cho trẻ uống nhiều nước. Điều này đặc biệt quan trọng vì tiêu chảy nhiều khiến trẻ dễ mất nước. Nên cho trẻ ăn các thức ăn lỏng, mềm để trẻ ăn uống dễ dàng hơn, thức ăn quá nóng hay quá lạnh đều không có lợi cho sự phát triển của răng trẻ. Ngoài ra cũng cần bổ sung cho trẻ hàm lượng canxi trong thành phần các bữa ăn hàng ngày.
ThS.BS. Đinh Thạc (BV. Nhi Đồng 1 - TP.HCM)
- See more at: http://www.cachchuabenh.net/suc-khoe-tre-em/tre-moc-rang-nhung-dieu-can-biet-n62-3910#sthash.F1C89txY.dpuf

Tags: triệu chứng hivtriệu chứng hiv giai đoạn đầutrieu chung ban dau cua hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net


Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

Cho trẻ ăn sữa chua đúng cách

Hầu như ai cũng biết ít nhiều là sữa chua cần thiết cho sức khỏe của trẻ. Đáng tiếc là nhiều bà mẹ vẫn chưa có thói quen cho con ăn sữa chua, hay tuy có cho dùng nhưng không đúng cách.




Thuốc quý phải dùng đúng cách
Bên cạnh tác dụng nhuận tràng, lực lượng vi sinh trong sữa chua là phương tiện an toàn cho cơ tạng còn rất nhạy cảm của trẻ để tương tranh với hàng trăm chủng loại vi sinh độc hại lúc nào cũng chực chờ trong khung ruột. Thầy thuốc ủng hộ cách dùng sữa chua có vi sinh hoàn toàn có lý, vì kết quả nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy khả năng truy lùng bệnh của bạch cầu và thực bào trong cơ thể của trẻ thường dùng sữa chua được cải thiện thấy rõ. Trong môi trường ô nhiễm, như ở nước mình, thủ được thuốc quý như thế còn muốn gì hơn.
Tuy vậy, dùng cái gì cũng phải đúng cách mới có tác dụng. Thành phần vi sinh hữu ích trong khung ruột có chung một nhược điểm là rất mong manh! Các thành phần này rất dễ thất thoát nếu trẻ phải dùng thuốc kháng sinh lâu ngày. Chúng thậm chí hao hụt rất nhanh trong trường hợp ngộ độc thực phẩm, khi trẻ bị căng thẳng (chẳng hạn trong giai đoạn mới vào nhà trẻ, vào trường học), hay thường khi chỉ vì thay đổi cách ăn uống. Chính vì thế mà trẻ nên ăn sữa chua sau bữa điểm tâm, vì đó là thời điểm tốt nhất để tăng cường sức kháng bệnh.
Kế đến, nhiều người vẫn tưởng chỉ cần cho trẻ sữa chua lúc nào vui miệng. Đáng tiếc vì uổng tiền... Sữa chua nếu muốn nên thuốc phải chứa một lượng rất lớn vi sinh để một phần trong đó sống sót sau khi lội qua nước chua của dạ dày. Quan trọng hơn nữa, nếu muốn tái lập quân bình vi sinh trong đường ruột cần ăn sữa chua mỗi ngày, 1 lần trong ngày được rồi, nhưng tối thiểu 4 tuần liên tục! Trong thời gian đó, càng khéo hơn nữa nếu trẻ có chế độ dinh dưỡng dồi dào chất xơ từ rau cải mễ cốc. Dù là trẻ con hay người lớn, dùng sữa chua theo kiểu xuân thu nhị kỳ chỉ vui lòng nhà sản xuất!
“Thuốc” cho nhiều trường hợp đặc biệt
Với trường hợp trẻ dùng thuốc kháng sinh nhiều ngày thì sữa chua, cho dù có ăn mỗi ngày mấy hũ, không đủ để phục hồi khung ruột vì bệnh nhi thường cần không dưới 10 tỷ vi sinh loại Lactobacillus hay Bifido mỗi ngày. Trong trường hợp này nên dùng thuốc có men vi sinh theo hướng dẫn của thầy thuốc. Nếu dùng chung với sữa chua càng hay. Quan trọng là nếu pha nước thì phải với nước lạnh chứ đừng luộc vi khuẩn bằng nước sôi!
Không chỉ tốt cho trẻ, kết quả của nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy sữa chua là món nên chú trọng cho các đối tượng như: Nam giới bị mụn vì dậy thì; Nữ giới hay đau bụng kinh lại thêm huyết áp thấp; Người trung niên có lượng mỡ trong máu vượt quá định mức bình thường; Đàn ông hay bị viêm da vì tăng acid uric trong máu do mạnh miệng với rượu bia; Bệnh nhân tiểu đường hay bị táo bón với điều kiện chọn loại sữa chua không đường; Quý bà vào tuổi mãn kinh để ngăn chặn tình trạng loãng xương...
Thêm một điểm quan trọng cho người tiêu dùng. Đừng tưởng sữa chua phải chua mới tốt. Khẩu vị chua nhiều hay ngọt lịm là chuyện nhỏ trong tay nhà sản xuất. Chuyện đó không ăn nhằm gì với thành phần vi sinh trong sản phẩm. Do đó đừng nghe lời quảng cáo.
(Bác sĩ Lương Lễ Hoàng)
Từ nguồn cachchuabenh.net
Trên đây là một số thông tin tham khảo về sức khỏe. Để biết thêm thông tin về sức khỏe, tâm lý các bạn hãy gọi điện tới tổng đài chăm sóc sức khỏe trực tuyến 19008908 hoặc 19008909 để nhận được hỗ trợ trực tiếp từ các chuyên gia.
 khỏe, tâm lý các bạn hãy gọi điện tới tổng đài chăm sóc sức khỏe trực tuyến 19008908 hoặc 19008909 để nhận được hỗ trợ từ các chuyên gia.

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

Xử trí chảy máu cam ở trẻ em

Chảy máu cam là tình trạng xuất huyết ở mũi, đây không phải là hiện tượng hiếm gặp ở trẻ nhỏ và thanh thiếu niên. Hiện tượng này gây ra rất nhiều khó chụi, thậm chí còn gây ra hoảng sợ, tuy nhiên chảy máu cam ở trẻ không phải là tình huống trầm trọng cần cấp cứu nhưng bạn cũng cần có kiến thức cơ bản để có thể sơ cứu khi trẻ nhà bạn bị chảy máu cam.

Niêm mạc mũi dễ chảy máu vì có nhiều mạch máu tập trung với mạng lưới mao mạch rất dày. Chảy máu cam là do có sự rối loạn vận mạch, hay tổn thương niêm mạc hốc mũi hoặc do đường thở bị khô.

Trẻ nhỏ bị chảy máu cam là do thành mạch máu mỏng và sát với niêm mạc mũi hơn so với ở người lớn. Khi trẻ bị chảy máu cam thì đa số vị trí chảy máu thường ở gần phía trước của mũi, ở vách ngăn chia hai bên mũi và thường chảy máu ở một bên mũi nhưng cũng có trường hợp chảy máu cũng có thể xuất phát ở sâu hơn trong khoang mũi.

Mũi là cửa ngỏ đầu tiên để đưa lượng khí hô hấp vào bên trong cơ thể. Do vậy, tất cả các nguyên nhân làm thay đổi hoặc tổn thương khoang mũi đều là các nguyên nhân gây chảy máu cam ở trẻ. Có rất nhiều nguyên nhân có thể kiến trẻ bị chảy máu cam và có thể phân thành các nguyên nhân như:

Nguyên nhân gây hiện tượng chảy máu cam:

- Chấn thương ở mũi: do tai nạn hay do va đập mạnh, do đánh nhau. Khi bị tác dụng lực vào mũi thì có khả năng làm vỡ các mạch máu lớn trong hốc mũi gây chảy máu và nếu nặng có thể gây mất máu với số lượng lớn gây ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.
- Do trẻ bị mắc các bệnh viêm đường hô hấp trên: như cảm cúm, viêm xoang hay do hít phải hơi độc.
- Do các dị vật đường thở mà trẻ mắc phải: như nhét hạt cườm, hòn bi hay hạt lạc… vào trong hốc mũi.
- Do thời tiết quá lạnh: khiến đường thở bị khô hoặc bị dị ứng trong trường hợp viêm mũi dị ứng gây ho và hắt hơi quá mức.
- Do có sự xuất hiện của khối u trong mũi trẻ.

Xử trí

Khi trẻ bị chảy máu cam thì trước tiện bạn phải thật bình tĩnh, cho trẻ ngồi xuống ghế và hơi ngã ra phía trước (gập người về phía trước) sao cho vị trí mũi cao hơn vị trí tim. Vì khi ở vị trí này, máu sẽ chảy ra ngoài hai lỗ mũi mà không chảy ngược vào họng trẻ.

Dùng hai ngón tay (ngón cái & ngón trỏ) để bóp chặt liên tục hai cánh mũi của trẻ để chúng chụm lại với nhau trong khoảng 10 phút. Khi ấy, cho trẻ thở bằng miệng.

Bạn có thể sử dụng khăn lạnh đắp ở phần sống mũi củ trẻ để cầm máu.

Bạn nên dặn trẻ thật kỹ rằng tuyệt đối không được nuốt máu bởi nếu trẻ nuốt vào thì có thể gây nôn hoặc tiêu chảy ở trẻ sau đó.

Nhỏ một giọt chanh vắt vào trong lỗ mũi trẻ. Máu sẽ nhanh chóng ngừng chảy.

Dùng một miếng gạc lạnh hay một túi đá chườm để chườm lên trên cánh mũi. Khi máu đã ngưng chảy bạn dặn trẻ không nên khụt khịt, hắt hơi hay ngoáy mũi vì sẽ rất dễ khiến cho máu chảy lại.

Sau khi bạn đã cầm được máu cho trẻ, hãy rửa mặt cho trẻ thật sạch với nước lạnh, thái một củ hành và cho trẻ ngửi. Tiếp đó, bạn cũng có thể cho trẻ ăn một chút mật ong hoặc đường.

Sử dụng dấm rượu táo cũng là một cách hữu hiệu giúp bạn trong việc cầm máu khi trẻ nhà bạn bị chảy máu cam. Bằng cách bạn hãy ngâm một chiếc bông nhỏ trong dấm và dùng nó để nhét vào lỗ mũi. Dấm sẽ giúp máu đông lại.

Không để trẻ móc vào lỗ mũi hoặc là chọc bất kỳ vật gì khác vào trong hai lổ mũi. Nếu như trẻ nhà bạn bị viêm mũi dị ứng thì nên đi khám bác sĩ để được uống thuốc chữa và phòng những cơn dị ứng.

Nguồn tổng hợp

Trên đây là một số thông tin tham khảo về sức khỏe. Để biết thêm thông tin về sức khỏe, tâm lý các bạn hãy gọi điện tới tổng đài chăm sóc sức khỏe trực tuyến 19008908 hoặc 19008909 để nhận được hỗ trợ từ các chuyên gia.

Tags: triệu chứng hivtriệu chứng hiv giai đoạn đầutrieu chung ban dau cua hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

Bệnh tay - chân - miệng và những điều cần lưu ý

Bệnh tay - chân – miệng là bệnh truyền nhiễm có thể gây thành dịch do siêu vi trùng đường ruột gây ra, đặc trưng bởi sang thương phát ban kiểu bóng nước ở miệng, tay, chân kèm theo sốt. Bệnh có tiềm năng gây tổn thương thần kinh biểu hiện viêm não, viêm màng não, liệt, là nguy cơ tử vong hoặc để lại di chứng não về lâu dài làm trẻ khó thích ứng với xã hội.

Vài nét về bệnh tay – chân - miệng (BCTM)

Bệnh tay - chân - miệng (BTCM) được mô tả đầu tiên  năm 1956, rải rác khắp nơi trên thế giới nhưng chỉ được quan tâm trong khoảng 10 năm gần đây, từ khi 3 vụ dịch lớn đã xuất hiện trong những năm 1995, 1998 và 2000. Bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu và gần như quanh năm ở các nước nhiệt đới. Bệnh có thể gặp ở mọi tuổi nhưng phổ biến ở lứa tuổi nhỏ hơn 4 tuổi. Vấn đề BTCM mới được chú ý ở Việt Nam trong vài năm gần đây. Các xét nghiệm khẳng định bệnh cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn phức tạp và đắt tiền, không phải cơ sở y tế nào cũng thực hiện được.

Đường lây nhiễm chính của BTCM qua đường tiêu hoá, trực tiếp từ phân – miệng hoặc gián tiếp qua nước, thực phẩm, tay bẩn, bị ô nhiễm phân người bệnh, một số ít trường hợp được ghi nhận lây lan qua đường hô hấp.

Triệu chứng lâm sàng quan trọng: bóng nước ở  các vị trí tay, chân, miệng

Biểu hiện sớm nhất của bệnh là sốt nhẹ, chán ăn, mệt mỏi. Trong 1 đến 2 ngày bệnh sẽ phát ban là những nốt hồng ban đường kính vài mm nổi trên nền da bình thường, sau đó trở thành bóng nước. Sang thương ở miệng có dạng vết loét, có đường kính từ 4 – 8mm, thường ở phía trong miệng (61%), ở trên lưỡi (44%), tại vòm miệng (36%) hoặc ở lợi răng (15%) làm trẻ nuốt đau.

Với triệu chứng này cha mẹ thường nhầm lẫn với với bệnh viêm loét miệng thông thường. Những bóng nước ngoài da thường xuất hiện ở lòng bàn tay (52%), lòng bàn chân (31%), cẳng chân (13%), hoặc ở cánh tay (10%). Trẻ nhũ nhi có thể có ban dạng sẩn vùng mông (31%), nơi quấn tã lót.

Trong giai đoạn cấp, ngoài những dấu hiệu trên, đôi khi bệnh kèm theo triệu chứng như đau họng (76,2%) hạch ở cổ, hạch dưới hàm, ho, sổ mũi, nôn ói (20,7%), tiêu chảy (6,7%).

Ở một số ít trường hợp trong giai đoạn diễn tiến, siêu vi gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương, sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, li bì, mê sảng hay co giật.

Trẻ có thể tử vong hoặc hồi phục sau một thời gian điều trị vẫn còn những rối loạn tâm thần kinh kéo dài.

Những bệnh dễ nhầm lẫn với bệnh tay – chân - miệng:

Do bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu, cùng thời gian với những bệnh lý khác ở da  và tổn thương da là bóng nước nên cần phân biệt với bệnh viêm da bóng nước  do nhiễm khuẩn như tụ cầu và liên cầu, bệnh do nhiễm siêu vi Herpex simplex hoặc bệnh thủy đậu. Viêm da bóng nước do nhiễm khuẩn thường xuất hiện sau khi da  có vết trầy sướt, ghẻ, chàm… bị nhiễm trùng tạo ra bóng nước. Trẻ có vẻ mặt nhiễm trùng và thường kèm theo tổn thương những cơ quan khác trong bệnh cảnh nhiễm trùng huyết. Bóng nước do nhiễm Herpes simplex thường nổi thành từng chùm ở quanh miệng. Bóng nước do bệnh thủy đậu nổi rải rác toàn thân, bóng nước cũ xen lẫn bóng nước mới, có bóng nước trong lẫn bóng nước đục, và trẻ có tiếp xúc với người bị bệnh thủy đậu trong vòng 2 tuần trước đó. Sự hiện diện bóng nước ở cả 3 vị trí tay, chân miệng giúp loại trừ những bệnh lý khác để nhận diện bệnh.

Chăm sóc và điều trị BTCM

Trẻ mắc bệnh BTCM thường khỏi trong vòng một tuần lễ nếu được điều trị đúng cách, không có biến chứng. Những bóng nước mới đầu có dịch trong (lúc bội nhiễm sẽ gây đục), sau đó sẽ lành không để lại sẹo. Nếu không được điều trị đúng cách hoặc diễn tiến nặng sẽ gây những biến chứng rất nặng như nhiễm trùng huyết, viêm màng não, viêm não, viêm cơ tim. Biến chứng não rất dễ dẫn đến tử vong.

Hiện nay chưa có thuốc đặc trị BTCM vì vậy để giảm nguy cơ nhiễm trùng da niêm cần phải vệ sinh thân thể: cho trẻ súc miệng mỗi ngày, chăm sóc da bằng cách tắm nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng, tránh làm vỡ bóng nước hay trầy sướt da, thay quần áo sạch hàng ngày. Cắt ngắn móng tay để giảm tổn thương da do gãi ngứa. Cho ăn uống đầy đủ dưỡng chất và nhu cầu, cho trẻ uống nhiều nước như nước sôi để nguội, nước trái cây, nước canh, nước cháo.

Lưu ý trẻ bị BTCM không cần kiêng cữ gió và ánh sáng, không chọc vỡ bóng nước, không đắp lá cây vì sẽ gây nhiễm trùng da.

Theo dõi diễn biến các tổn thương da niêm và tình trạng chung của trẻ. Khi trẻ có những dấu hiệu như sốt cao, nhức đầu, nôn ói nhiều, lơ mơ, giật mình chới với, co giật, mệt nhiều cần phải đưa trẻ đến bệnh viện ngay để được điều trị biến chứng nặng của bệnh.

Phòng bệnh

Mặc dù xác định được nguyên nhân gây bệnh nhưng hiện nay vẫn chưa có thuốc chủng ngừa BTCM nên vấn đề chủ yếu là mọi người làm tốt công tác phòng bệnh giúp ngăn ngừa lây lan. Đó là những vấn đề cải thiện tình trạng vệ sinh môi trường, kiểm soát nước thải, sát trùng nước cung cấp. Diệt trùng và xử lý phân trẻ bệnh. Chú trọng vệ sinh thực phẩm và ăn uống: ăn thức ăn nấu chín kỹ, uống nước đun sôi để nguội, rửa tay sạch sau khi đi vệ sinh và trước khi cho trẻ ăn uống.

BSCK2 Nguyễn Thị Kim Thoa

Theo Bệnh Viện Nhi Đồng I

Chú ý: Trên đây la một số thông tin tham khảo về sức khỏe trẻ em. Nếu có những thắc mắc chung về sức khỏe, tâm lý hãy gọi điện cho tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ.

Tags: triệu chứng hivtriệu chứng hiv giai đoạn đầutrieu chung ban dau cua hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Các biến chứng của bệnh sởi

Hàng năm, cứ vào dịp cuối mùa đông đầu xuân là thời điểm mà bệnh sởi có cơ hội phát triển. Bệnh sởi thường xuất hiện ở trẻ em (thường là trẻ dưới 5 tuổi), nhưng người lớn cũng có thể mắc sởi. Bệnh sởi lây lan nhanh trong cộng đồng, nếu bệnh nhân không được chăm sóc đúng cách rất dễ bị các biến chứng.

Các biến chứng của bệnh sởi

Biến chứng đường hô hấp:

Viêm phế quản: Thường do bội nhiễm, xuất hiện vào cuối thời kỳ mọc ban. Biểu hiện sốt lại, ho nhiều, nghe phổi có ran phế quản, bạch cầu tăng, trên phim Xquang nhìn rõ hình ảnh phế quản bị viêm..
Viêm phế quản - phổi: Đây là biến chứng do bội nhiễm, thường xuất hiện muộn sau khi sởi mọc ban. Biểu hiện nặng: sốt cao khó thở, nghe phổi có nhiều âm ran phế quản, bạch cầu tăng. Trên phim Xquang cho thấy có nốt mờ rải rác hai phổi. Biến chứng này rất nguy hiểm và thường là nguyên nhân gây tử vong trong bệnh sởi, nhất là ở trẻ nhỏ.

Tiêm vaccine phòng bệnh sởi

Viêm thanh quản: Biến chứng viêm thanh quản có thể gặp ở các giai đoạn của bệnh sởi. Biến chứng ở giai đoạn sớm, là do virut sởi: xuất hiện ở giai đoạn khởi phát, giai đoạn đầu của mọc ban, biến chứng viêm có thể mất theo nốt ban, bệnh nhân có cơn khó thở do co thắt thanh quản. Biến chứng ở giai đoạn muộn là do bội nhiễm (hay gặp do bệnh nhân sởi bị nhiễm tụ cầu, liên cầu, phế cầu...), xuất hiện sau mọc ban. Diễn biến thường nặng: sốt cao vọt lên, ho ông ổng, khàn tiếng, khó thở, tím tái.

Biến chứng thần kinh: Đây là biến chứng nguy hiểm của bệnh sởi.

Viêm não - màng não - tủy cấp: Là biến chứng nguy hiểm gây tử vong và di chứng cao, thường gặp ở trẻ lớn (tuổi đi học), xuất hiện vào tuần đầu của ban (ngày 3-5 của ban). Triệu chứng bệnh khởi phát đột ngột, người bệnh sốt cao vọt, có thể co giật, rối loạn ý thức như: hôn mê, liệt nửa người hoặc một bên chi, liệt dây thần kinh số III, VII. Ngoài ra, bệnh nhân hay gặp hội chứng tháp - ngoại tháp, tiểu não, tiền đình...
Biến chứng viêm tủy biểu hiện dưới dạng liệt hai chi dưới, rối loạn cơ vòng.
Viêm màng não: Một dạng biến chứng thần kinh khác của bệnh sởi là viêm màng não kiểu thanh dịch và viêm màng não mủ sau viêm tai do bội nhiễm.

Viêm não chất trắng bán cấp xơ hóa: Đây là biến chứng ít gặp nhưng rất khó tiên lượng và để lại bệnh cảnh nặng nề, gặp ở tuổi từ 2 - 20, xuất hiện muộn sau vài năm mắc sởi. Điều này cho thấy virut sởi có thể sống tiềm tàng nhiều năm trong cơ thể bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch bất thường. Diễn biến của biến chứng từ vài tháng đến 1 năm. Bệnh nhân có thể tử vong trong tình trạng tăng tương lực cơ và co cứng mất não.
Biến chứng tai - mũi - họng: thường gặp là viêm mũi họng bội nhiễm, viêm tai và viêm tai xương chũm.
Biến chứng vùng khoang miệng:

Viêm niêm mạc miệng: Biến chứng xảy ra ở giai đoạn đầu của bệnh sởi là do virut sởi, thường hết cùng với ban. Biến chứng có thể xảy ra ở giai đoạn muộn của bệnh sởi, thường do bội nhiễm.
Cam tẩu mã: Xuất hiện muộn, do bội nhiễm một loại vi khuẩn hoại thư gây loét niêm mạc miệng, lan sâu rộng vào xương hàm gây hoại tử niêm mạc, viêm xương, rụng răng, hơi thở hôi thối.

Chăm sóc khi trẻ mắc sởi:

Tăng cường dinh dưỡng đầy đủ để phòng suy dinh dưỡng khi trẻ mắc bệnh. Uống nhiều nước hoa quả, ăn lỏng, đủ chất dinh dưỡng, không nên kiêng khem quá mức. Tăng cường vệ sinh răng miệng, vệ sinh cá nhân cho trẻ tránh nhiễm trùng cơ hội. Trẻ mắc bệnh hoặc nghi mắc bệnh sởi phải được cách ly, nghỉ học và không đến nơi tập trung đông người để tránh lây lan trong cộng đồng. Cha mẹ và người chăm sóc nên chú ý đưa trẻ đến bệnh viện khi trẻ có sốt phát ban và kèm theo ho.

Để phòng ngừa bệnh hiệu quả, người dân cần thực hiện các biện pháp như: Đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người bệnh và người nghi bị bệnh. Rửa tay bằng xà phòng sau khi tiếp xúc với người bệnh và người nghi bị bệnh. Che miệng khi ho, hắt hơi. Tẩy trùng sàn nhà, đồ chơi trẻ em, dụng cụ, vật dụng của người bệnh bằng dung dịch cloramin B.

Các bà mẹ phải thực hiện đầy đủ các hướng dẫn của cán bộ y tế khi đưa trẻ đi tiêm chủng để phòng bệnh.
BS. Hồ Hạnh- Sức khỏe và đời sống

Chú ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về các biến chứng của bện sởi, nếu có những thắc mắc thêm về bệnh bạn có thể gọi điện đến tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia.

Tags: triệu chứng hiv, triệu chứng hiv giai đoạn đầu, trieu chung ban dau cua hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net



Cách phòng bệnh sởi hiệu quả?

Hiện nay, bệnh sởi đang xuất hiện tại một số thành phố ở trẻ em khiến cho nhiều bậc phụ huynh lo lắng. Vậy bạn có thể biết gì về bệnh sởi và yếu tố nguy cơ gia tăng số ca bệnh và làm thế nào để phòng bệnh sởi hiệu quả?

Đường lây truyền chủ yếu là đường hô hấp như: nước bọt , hắt hơi, sổ mũi hoặc do hít phải mầm bệnh từ môi trường bên ngoài của bệnh (do mầm bệnh có thể tồn tại ngoài môi trường hơn một giờ). Sởi là bệnh truyền nhiễm có tính lây truyền cao nhất và tính miễn dịch quần thể trong nhân dân cần phải đạt tới94% mới có thể cắt đứt được sự lây truyền của bệnh trong cộng đồng.


Triệu chứng của bệnh

- Thời kỳ ủ bệnh: (từ lúc bị nhiễm siêu vi trùng đến lúc có triệu chứng bệnh) Trung bình là 10 ngày (có thề thay đổi từ 7đến 18 ngày): trẻ có thể sốt nhẹ.

- Thời kỳ khởi phát (còn gọi là thời kỳ viêm long): Đây là thời kỳ hay lây nhất, kéo dài từ 3 đến 5 ngày với các biểu hiện như sau:

+ Sốt: Sốt nhẹ hoặc sốt cao 39,5oC đến 40oC, có thể có sốt cao co giật, kèm mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ đau khớp.

+ “Viêm long” (có triệu chứng giống như cảm cúm): thường xảy ra ở mắt và mũi, gây chảy nước mắt, đổnghèn nhiều, kết mạc mắt đỏ, bệnh nhân sợ ánh sáng, giác mạc và mi mắt có thể bị sưng phù, hắt hơi, sổ mũi, ho đàm, khàn giọng. Có thể gây viêm thanh quản co rút, nếu có triệu chứng viêm long ở đường tiêu hóa sẽ gây tiêu chảy.

+ Khám họng trong giai đoạn này có thể thấy những chấm trắng nhỏ khoảng 1mm mọc trên nền niêm mạc má viêm đỏ,có vị trí ngay với răng hàm thứ nhất, đó là dấu “Koplik” rất có giá trị để giúp chẩn đoán khi phát ban. Thời gian tồn tại của dấu hiệu này khoảng 12 đến 18 giờ.

- Thời kỳ toàn phát (hay còn gọi là thời kỳ phát ban): Ban xuất hiện đầu tiên ở sau tai, sau đó lan dần lên 2 bên má, cổ, ngực, bụng và phần chi trên trong vòng 24 giờ. Trong 24 gờ kế tiếp, ban lan xuống lưng, bụng, 2 tay và sau cùng là 2 chân trong từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 3 của bệnh. Ban sởi màu hồng nhạt, ấn vào mất, thường kết dính lại. Trong trường hợp nhẹ, ban mọc thưa thớt. Đối với những trường hợp nặng, ban mọc dày đặc cả lòng bàn tay, bàn chân, đôi khi có ban xuất huyết cơ thể kèm chảy máu mũi, miệng, xuất huyết tiêu hóa.

Biến chứng của bệnh sởi

- Viêm phổi:Thường là do bội nhiễm vi trùng khác như: phế cầu, liên cầu, tụ cầu Hemophilus Influenzae.
- Lao: Sởi làm tăng nguy cơ trầm trọng bệnh lao tiềm ẩn và làm gia tăng mức độ lao sơ nhiễm.
- Viêm tai giữa: Sốt cao, quấy khóc, chảy mủ 1 hoặc 2 bên tai.
- Viêm thanh quản: Có thể kèm cơn khó thở về đêm, ho hen, khàn giọng, nếu nặng có thể khó thở thanh quản.
- Viêm não tủy (0,1 – 0,2%): Có thể xảy ra sớm hơn 2 tuần với triệu chứng sốt cao, nôn ói, nhức đầu, lơ mơ, co giật.
- Xuất huyết giảm tiểu cầu: Thường xảy ra từ ngày 3 đến ngày 5
Một số chứng bệnh khác: Viêm kết mạc mắt, dẫn đến loét giác mạc do thiếu Vitamin A dẫn đến mù; Viêm cơ tim; Viêm loét niêm mạc má, miệng; Viêm hạch mạc trên ruột, gây đau bụng; Viêm gan: gây vàng da, tăng men gan; Viêm vỉ cầu thận cấp...

Theo kết quả giám sát của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương: Bệnh sởi xuất hiện trở lại cuối năm 2013 sau 3 năm không có dịch: tại Hà Nội phân bố rải rác tại 36 phường của 9 quận (Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, Hoàng Mai, Đống Đa, Ba Đình, Long Biên, Hoàn Kiếm, Cầu Giấy, Hà Đông). Không chỉ tại Hà Nội, từ đầu năm 2014 đến nay, bệnh sởi còn xảy ra ở Lào Cai, Sơn La, Yên Bái và Thành phố Hồ Chí Minh trong đó chủ yếu là trẻ dưới 5 tuổi.

Cũng theo điều tra dịch tễ cho thấy khoảng 80% bệnh nhân chưa được tiêm phòng. Bệnh xảy ra ở những trẻ chưa được tiêm, hoặc đã được tiêm một mũi lúc 9 tháng tuổi, hoặc đã được tiêm mà vì một lý do nào đó trẻ không có đáp ứng miễn dịch tốt, hoặc trẻ nhỏ sinh ra từ những bà mẹ mà trước đó chưa được tiêm vắcxin sởi hay chưa từng mắc sởi. Khi tích lũy đủ lớn số trẻ chưa có miễn dịch thì dịch sẽ xảy ra. Bên cạnh đó các tỉnh miền núi phía Bắc có nguy cơ cao xuất hiện dịch do giáp với Trung Quốc là quốc gia đang có dịch sốt phát ban nghi sởi lưu hành

Vấn đề tiêm phòng ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn do địa bàn rộng và giao thông không thuận lợi, điều tra nhanh các ca bệnh tại tỉnh Yên Bái cho thấy chỉ có khoảng 20% được tiêm vắc xin đầy đủ. Do đó, trong thời gian tới dịch có thể xuất hiện rải rác tại các tỉnh miền núi và các tỉnh vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên trước tình hình hiện nay chuyên gia dịch tễ học khẳng định, tình hình bệnh sởi hiện không có gì đáng lo ngại vì vắcxin sởi đã được triển khai từ nhiều năm nay với tỷ lệ cao. Do đó đa số trẻ đã có miễn dịch. Trong thời gian qua dịch xảy với quy mô nhỏ, tản phát, rải rác ở một số tỉnh và đã được kiểm soát sau một thời gian ngắn.

Cách phòng bệnh sởi hiệu quả?

Tiêm vắc xin là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất.

Bệnh sởi là bệnh truyền nhiễm gây dịch lây qua đường hô hấp do vi rút sởi gây nên. Tiêm vắc xin sởi là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất. Để phòng bệnh có hiệu quả, trẻ cần được tiêm 2 mũi. Mũi thứ nhất được tiêm khi trẻ 9 tháng tuổi, mũi thứ hai được tiêm khi trẻ 18 tháng tuổi.

Không có vắc xin nào có hiệu qủa bảo vệ 100%. Nếu trẻ được tiêm một mũi vắc xin sởi lúc 9 tháng tuổi, chỉ có 80-85% trẻ có đáp ứng miễn dịch. Nếu trẻ được tiêm thêm mũi vắc xin sởi thứ hai lúc 18 tháng tuổi thì tỷ lệ bảo vệ là 90-95%.

Sau khi mắc sởi xong hoặc sau khi được tiêm đủ 2 mũi vắc xin theo lịch tiêm chủng thì có miễn dịch có thể bền vững suốt đời.

Các bà mẹ phải thực hiện đầy đủ các hướng dẫn của cán bộ y tế khi đưa trẻ đi tiêm chủng.

Chăm sóc khi trẻ mắc bệnh sởi

- Tăng cường dinh dưỡng đầy đủ để phòng suy dinh dưỡng;

- Tăng cường vệ sinh răng miệng, vệ sinh cá nhân cho trẻ tránh mắc bệnh cơ hội.

- Trẻ mắc bệnh hoặc nghi mắc bệnh sởi phải được cách ly, nghỉ học và không đến nơi tập trung đông người để tránh lây lan trong cộng đồng.
-  Cha mẹ và người chăm sóc nên chú ý đưa trẻ đến bệnh viện khi trẻ có sốt phát ban và kèm theo ho.

BS. Huỳnh Trọng Dân

Trên đây là một số thông  tin tham khảo về sức khỏe sinh sản. Để biết thêm thông tin về sức khỏe, tâm lý các bạn hãy gọi điện tới tổng đài chăm sóc sức khỏe trực tuyến 19008908 hoặc 19008909 để nhận được hỗ trợ trực tiếp từ các chuyên gia.


Tags: triệu chứng hivtriệu chứng hiv giai đoạn đầutrieu chung ban dau cua hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Bệnh sởi đang bùng phát?

Sởi là bệnh nhiễm virut cấp tính, lây truyền rất mạnh, xảy ra quanh năm, cao điểm nhất vào mùa xuân. Trong những năm qua, công tác tiêm phòng được thực hiện tốt hầu hết ở mọi địa phương nên dịch bệnh không xảy ra. Tuy nhiên, theo Trung tâm y tế dự phòng TP. Hồ Chí Minh, sau 3 năm không có ca bệnh, thời gian qua bệnh sởi lại bất ngờ quay lại tấn công trẻ em và có nguy cơ bùng phát thành dịch nếu không kịp thời ngăn chặn.

Bệnh có nguy cơ lây lan trên diện rộng

Theo thống kê của Phòng Kế hoạc tổng hợp, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM, từ khoảng đầu tháng 12/2013 đến nay, bệnh viện đã tiếp nhận và điều trị cho 65 trường hợp mắc bệnh sởi. Số ca bệnh đến khám và điều trị tại bệnh viện đang có biểu hiện tăng dần. Tại Bệnh viện Nhi đồng 2, thời gian từ cuối tháng 12/2013 trở về trước, số cả bệnh nhập viện chỉ lẻ tẻ mỗi tháng vài ca, nhưng từ đầu tháng 1/2014 đến nay, số ca bệnh đang tăng dần với khoảng 5-10 trường hợp đến khám và điều trị mỗi ngày.

Bệnh viện Nhi đồng 1 đang là điểm nóng nhất của bệnh sởi. Theo các bác sĩ tại Khoa Nhiễm cho biết: “Khoảng một tháng nay, trung bình mỗi ngày tại khoa tiếp nhận và điều trị cho khoảng 15-20 trẻ mắc bệnh sởi. Trẻ này chưa kịp xuất viện thì trẻ khác đã phải nhập viện, nhiều trường hợp gặp biến chứng nặng như viêm phổi, viêm tai giữa, viêm kết mạc mắt... phải nằm thở máy. Số ca nhập viện do loại bệnh này đến nay đã hơn 100 trường hợp nhưng vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm”. Đặc biệt, tại bệnh viện đã tiếp nhận nhiều trẻ còn dưới 9 tháng (chưa đến thời điểm tiêm phòng sởi) gây khó khăn ít nhiều cho chẩn đoán ban đầu.
Tại Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Nhi Trung ương trong 1 tháng gần đây cũng tiếp nhận hơn 10 ca sởi, kèm biến chứng nặng của sởi như viêm phổi do suy giảm miễn dịch sau mắc sởi, số lượng ca bệnh nhiều hơn hẳn số lượng mắc sởi điều trị tại khoa những năm trước...

Diễn biến bệnh

Thời kỳ ủ bệnh, trung bình 10-12 ngày, không có triệu chứng lâm sàng.

Thời kỳ khởi phát còn gọi là thời kỳ viêm long. Đây là thời kỳ dễ lây nhất, kéo dài 4 -5 ngày. Các triệu chứng chính trong giai đoạn này là: sốt, có thể sốt nhẹ 38-38,5oC hoặc sốt cao 39-40oC, kèm theo mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ khớp. Biểu hiện viêm long là biểu hiện rõ ràng nhất của bệnh sởi. Bao gồm: ho, hắt hơi, chảy nước mũi, nước mắt, nhiều dử mắt, tiêu chảy, khám họng có thể thấy dấu Koplik: những chấm trắng nhỏ nổi trong niêm mạc má màu đỏ, sung huyết đối diện với răng hàm thứ nhất. Những nốt này biến mất nhanh trong vòng 12-18 giờ sau khi xuất hiện.

Thời kỳ toàn phát, còn được gọi là thời kỳ phát ban. Ban xuất hiện đầu tiên sau tai, lan dần ra hai bên má, cổ ngực bụng và phần chi trên. Trong 24 giờ tiếp, ban lan ra sau lưng, hông và chi dưới. Trong vòng 2-3 ngày ban lan ra toàn thân. Ban màu hồng nhạt, ấn vào biến mất. Ban có khuynh hướng dính kết lại, nhưng xen kẽ có những khoảng da lành không bị tổn thương nằm giữa những vùng không bị phát ban. Trong các thể nhẹ, ban thưa thớt, không lan đến chân. Trong trường hợp nặng, ban dày gần như toàn bộ da bị che kín, ngay cả bàn tay bàn chân. Đôi khi có cả ban xuất huyết và có thể kèm theo xuất huyết ở mũi, miệng, ống tiêu hóa. Khi bắt đầu phát ban, nhiệt độ cơ thể tăng đột ngột, nhưng khi ban mọc đến chân thì nhiệt độ giảm. Ngoài ra còn có biểu hiện: hạch cổ và hàm có thể bị sưng lên, lách to, hạch màng bụng to gây đau bụng...
Thời kỳ hồi phục, thông thường sởi bay theo trình tự xuất hiện, để lại những vết thâm đen trên mặt da được gọi là vết vằn da hổ. Bệnh nhân ăn uống khá hơn, toàn trạng hồi phục dần nếu không có biến chứng.

ThS. BS. Nguyễn Thanh Lâm

Theo Sức khỏe và đời sống

Trên đây là một số thông tin tham khảo về sức khỏe. Để biết thêm thông tin về sức khỏe, tâm lý các bạn hãy gọi điện tới tổng đài chăm sóc sức khỏe trực tuyến 19008908 hoặc 190008909 để nhận được hỗ trợ từ các chuyên gia.

Tags: triệu chứng hivtriệu chứng hiv giai đoạn đầutrieu chung ban dau cua hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Tư vấn sức khỏe 1900 8909

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by cachchuabenh.net | Sức khỏe sinh sản | Bệnh truyền nhiễm | Sức khỏe trẻ em