TƯ VẤN SỨC KHỎE1900.8909

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Để trẻ tự kỷ có thể ngủ ngon?

Trong vài tháng đầu đời, trẻ sơ sinh dễ đi vào một chu kỳ bình thường của giấc ngủ và sự tỉnh táo. Chúng dần dần giảm số lần ngủ ngắn vào ban ngày và bắt đầu ngủ thời gian dài hơn vào ban đêm.

Tuy nhiên, một số trẻ em tiếp tục gặp khó khăn đi vào giấc ngủ hoặc khi ngủ qua đêm, và các vấn đề có thể tồn tại lâu đến sau thời kỳ trẻ bắt đầu học.Rối loạn giấc ngủ có thể  là điều phổ biến hơn ở trẻ em mắc chứng tự kỷ.


Các nhà nghiên cứu ước tính có 40% ~ 80% trẻ mắc chứng tự kỷ khó ngủ. Các vấn đề lớn về giấc ngủ nơi những trẻ em này bao gồm:

* Khó ngủ

* Thói quen ngủ không phù hợp

* Bồn chồn hay chất lượng giấc ngủ kém

* Thức dậy sớm.

Thiếu một giấc ngủ ngon có thể không chỉ  ảnh hưởng đến trẻ, mà với tất cả mọi người trong gia đình của trẻ. Nếu bạn không chợp mắt từ đêm này qua đêm khác, thức dậy với con của bạn, sẽ khiến cho bạn dễ trở nên cáu kỉnh hay thiếu kiên nhẫn hơn trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.


Nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ ở trẻ em  tự kỷ?Các nhà nghiên cứu không biết chắc chắn lý do vì sao trẻ tự kỷ có vấn đề với giấc ngủ, nhưng họ có một số giả thuyết.

- Đầu tiên là các tín hiệu xã hội. Mọi người đều biết sự chuyển động của thời gian, khi đó,  để đi ngủ vào ban đêm nhờ các chu kỳ bình thường của ánh sáng và bóng tối, và nhịp sinh học của cơ thể. Nhưng họ cũng biết sử dụng tín hiệu xã hội. Ví dụ, trẻ có thể nhìn thấy anh, chị, em ruột trong nhà đã sẵn sàng lên  giường. Trẻ tự kỷ do thường xuyên gặp khó khăn trong việc giao tiếp, có thể hiểu sai hoặc không hiểu được những tín hiệu này.

- Một giả thuyết khác liên quan tới hormone melatonin, chất thường giúp điều chỉnh chu kỳ ngủ-thức. Để  sản sinh melatonin, cơ thể cần một thứ acid amin được gọi là tryptophan, nghiên cứu đã tìm thấy có mức độ cao hơn hoặc thấp hơn bình thường nơi trẻ mắc chứng tự kỷ. Thông thường, mức độ melatonin tăng để đáp ứng khi bóng tối (vào ban đêm) và hạ xuống trong suốt thời gian với ánh sáng ban ngày. Các nghiên cứu đã chỉ ra ở một số trẻ em mắc chứng tự kỷ,  melatonin không phát sinh vào thời điểm chính xác trong ngày. Thay vào đó, những trẻ này có hàm lượng melatonin nhiều, theo các cấp độ,  lúc  ban ngày và thấp vào ban đêm.

- Một lý do khác, trẻ tự kỷ có thể gặp khó khăn khi đi vào giấc ngủ hoặc thức giữa đêm có thể là quá  nhạy cảm  với các kích thích bên ngoài, chẳng hạn như được sờ vào hoặc do âm thanh. Trong khi hầu hết trẻ em tiếp tục giấc ngủ ngon khi có tiếng mẹ của chúng mở cánh cửa phòng ngủ hoặc tiếng chui rúc vào chăn, một đứa trẻ mắc chứng tự kỷ có thể bị làm thức dậy đột ngột.
Lo âu là một trạng thái có thể ảnh hưởng bất lợi  đến giấc ngủ. Trẻ em mắc chứng tự kỷ có xu hướng " bồn chồn " cao hơn so với các trẻ em khác .

Vấn đề về giấc ngủ có tác động thế nào? Không có được một giấc ngủ ngon có thể có một tác động nghiêm trọng đến cuộc sống của một đứa trẻ và sức khỏe tổng thể. Nghiên cứu cho thấy rằng, ở trẻ tự kỷ, có một kết nối giữa thiếu ngủ và các đặc điểm sau:

* Hay gây gổ

* Trầm cảm

* Hiếu động thái quá

* Các vấn đề về rối loạn hành vi tăng nặng

* Khó chịu

* Học tập và nhận thức sút kém

Tuy nhiên, con của bạn không phải là người  bị ảnh hưởng duy nhất. Nếu trẻ không ngủ được, bạn cũng khó có thể có cơ hội nào tốt. Một nghiên cứu cho thấy rằng cha mẹ của trẻ tự kỷ ngủ ít hơn, có chất lượng giấc ngủ kém hơn, và thường thức dậy sớm hơn cha mẹ của các trẻ không mắc chứng tự kỷ .

Làm thế nào để biết trẻ có rối loạn giấc ngủ?

Mỗi trẻ em đều có giờ giấc hơi khác nhau khi ngủ. Nói chung, đây là yêu cầu về số giờ ngủ theo độ tuổi:

1-3 tuổi : 12-14 giờ ngủ mỗi ngày;

3-6 tuổi : 10-12 giờ ngủ mỗi ngày;

7-12 tuổi : 10-11 giờ ngủ mỗi ngày;

Nếu con của bạn thường xuyên khó ngủ hoặc thức dậy nhiều lần trong đêm, đó có thể là một dấu hiệu của một vấn đề / giấc ngủ. Để biết chắc chắn, chúng ta nên quan tâm và cần một sự thăm khám của một nhà chuyên môn. Bạn nên ghi nhật ký giấc ngủ trong một tuần để theo dõi khi con bạn đang ngủ. Có thể trao đổi nhật ký này với bác sĩ và các chuyên gia .

Làm thế nào  giúp trẻ ngủ ngon hơn?

Thuốc ngủ chỉ nên được sử dụng như một phương sách cuối cùng với trẻ em. Có một số điều chỉnh lối sống và hỗ trợ giấc ngủ tự nhiên có thể cải thiện thời gian  và chất lượng giấc ngủ ở trẻ em mắc chứng tự kỷ:Tránh các chất kích thích như caffeine và đường trước khi đi ngủ.

Thiết lập một thói quen ban đêm: cho trẻ tắm nước ấm trước khi lên giường, đọc một câu chuyện, và cho đứa trẻ ngủ vào cùng một thời điểm mỗi đêm. Trợ giúp trẻ thư giãn trước khi đi ngủ bằng cách đọc một cuốn sách, massage nhẹ nhàng sau lưng, dưới hai bàn chân hoặc bật nhạc nhẹ.

Tránh xem truyền hình, trò chơi video, và các hoạt động kích thích khác trước khi đi ngủ.Vào ban đêm, để tránh phiền nhiễu đến cảm giác hãy gắn màn cửa nếu cần thiết trên cửa sổ của con để ngăn chặn ánh sáng và chắc chắn rằng các cánh cửa không lung lay.

Hãy hỏi bác sĩ nhi khoa về việc cho trẻ của bạn uống melatonin, chỉ cần trước khi đi ngủ. Bổ sung này thường được sử dụng như là một trợ giúp giấc ngủ để giúp người ngủ khi đi máy bay. Nó có thể giúp bình thường hóa các chu kỳ ngủ-thức ở trẻ em mắc chứng tự kỷ, những người đã có vấn đề giấc ngủ, và nghiên cứu cho đến nay thấy rằng nó an toàn và hiệu quả.

Hãy thử liệu pháp phơi nắng sáng. Cho trẻ tiếp xúc (phơi nắng) với các giai đoạn của ánh nắng sáng vào buổi sáng có thể giúp điều chỉnh việc sản sinh melatonin của cơ thể chúng .

TH

Chú ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về sức khỏe trẻ em. Nếu có những thắc mắc chung về sức khỏe, tâm lý hãy gọi điện cho tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các bác sĩ.

Tags: bieu hien cua hiv, bieu hien cua benh hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Có nên đưa trẻ đi khám định kỳ?

Trong quá trình phát triển của trẻ, một vài sự rối loạn phát triển và bệnh tật sẽ xuất hiện ở những lứa tuổi nhất định nên rất cần khám theo thời định. Nhờ quy định khám bao gồm các phần hỏi bệnh, nhìn – sờ – gõ – nghe và các xét nghiệm như xét nghiệm máu, nước tiểu, chụp X – quang… sẽ giúp sàng lọc và hỗ trợ các bác sĩ chẩn đoán chính xác hơn, phát hiện sớm các vấn đề bất thường của trẻ, đưa ra những hướng tư vấn, điều trị kịp thời với cha mẹ của trẻ.


Bé dù khỏe mạnh hay ốm yếu vẫn cần được các bác sĩ kiểm tra theo dõi thường xuyên. Ngay cả trong trường hợp mà lần khám trước cho kết quả khám bình thường, thì cha mẹ cũng không nên bỏ qua các lần khám sau.

Nên cho bé đi khám định kỳ

Lịch kiểm tra sức khỏe trong năm đầu đời của bé tốt nhất là định kỳ một hoặc hai tháng. Điều này cho phép bác sĩ theo dõi sự phát triển và tăng trưởng của bé, đảm bảo rằng bé đang phát triển bình thường về mọi mặt. Bé cần được tiêm phòng đúng lịch và khám răng định kỳ 6 tháng 1 lần.

Cụ thể, bé nên được đi khám sức khoẻ định kỳ theo lịch như sau:

- 6 tuần: kiểm tra sức khoẻ, sự phát triển và đặc biệt về khả năng nhìn của bé.

- 2 tháng: tiêm phòng lần 1: bạch hầu, ho gà, uốn ván, Hib, bại liệt và viêm màng não.

- 3 tháng: tiêm phòng lần 2: nhắc lại

- 4 tháng: tiêm phòng lần 2: nhắc lại

- 6 – 9 tháng: kiểm tra sức khoẻ, sự phát triển và đặc biệt về khả năng nghe.

- 12 -15 tháng: tiêm phòng quai bị, sởi và ban đỏ

- 18 – 14 tháng: kiểm tra sức khoẻ, sự phát triển

- 36 – 42 tháng: kiểm tra sức khoẻ, sự phát triển

- 40 tháng – 4 tuổi rưỡi: tiêm phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, quai bị, sởi và ban đỏ

- 4 tuổi rưỡi – 5 tuổi: kiểm tra tổng quát tại trường học.

Đây là lịch kiểm tra sức khỏe đầy đủ, tuy nhiên tùy vào điều kiện kinh tế và thời gian cho phép mà các mẹ có thể chọn cho bé lịch kiểm tra phù hợp nhất

Chuẩn bị cho bé đi khám định kì

Kiểm tra sức khỏe định kỳ cho bé cũng là dịp để các mẹ được giải tỏa các thắc mắc và trở về với các lời khuyên hữu ích về cách chăm sóc bé yêu của mình chu đáo nhất. Các mẹ nên chú ý một số điểm:

- Chọn thời gian thích hợp: Khi lên lịch hẹn với bác sĩ, bạn nhớ lưu ý tránh giờ ngủ, giờ ăn và giờ hay khóc quấy của bé. Hãy chọn lúc phòng khám tương đối vắng và thoáng, cố gắng tránh phòng phám giờ cao điểm.Buổi sáng thường vắng vẻ hơn khi các trẻ lớn phải đi học, nên nói chung, hãy chọn khám bệnh cuối buổi sáng hơn là vội vã lúc 4:00 chiều.

- Cho bé ăn trước khi đi: Một bệnh nhi đói bụng sẽ khóc quấy khiến bác sĩ khó khám bệnh. Cho nên hãy cho bé ăn no trước khi đưa bé đến phòng mạch bác sĩ. Nhớ mang theo một ít thức ăn dặm nhẹ và cho bé ăn ngay khi bé bắt đầu bú tay. Tuy nhiên, đừng quên rằng nếu cho bé ăn quá no ngay trước buổi khám sức khỏe, bé có thể sẽ bị nôn ọe khi bác sĩ bắt đầu.

- Cho bé mặc đồ rộng thoải mái: Chuẩn bị đồ cho bé khám bệnh, hãy nghĩ đến 2 tiêu chí: dễ mặc vào và dễ thay ra. Các mẹ không nên chọn các bộ quần áo có nhiều nút và khuy hay quá ôm sát cũng rất khó mặc và cởi ra nhanh chóng.

- Viết các câu hỏi ra giấy: Thời gian gặp bác sĩ không có quá dư dả để các mẹ có thể được giải đáp toàn bộ thắc mắc nên hãy chuẩn bị những câu hỏi thật cần thiết thay vì lan man. Để tránh việc bỏ sót vì cuống, các mẹ có thể viết danh sách các câu hỏi ra giấy và nhớ mang theo một chiếc bút để viết nhanh câu trả lời của bác sĩ vào bên cạnh câu hỏi cũng như ghi lại đầy đủ các lời hướng dẫn tư vấn khác.

- Tin tưởng vào bản năng làm mẹ: Hãy nhớ rằng bác sĩ chỉ khám cho bé mỗi tháng một lần trong khi bạn quan sát bé lớn lên từng ngày. Điều đó có nghĩa là bạn sẽ nhận thấy một số điều mà bác sĩ không thấy. Nếu bạn cảm thấy có điều không ổn cho bé, kể cả khi chưa chắc chắn là điều gì, thì các mẹ vẫn nên nói cho bác sĩ biết. Đôi khi trực giác của người mẹ là công cụ chẩn đoán bệnh tốt nhất cho bé.

Chú ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về sức khoẻ trẻ em, nếu có những thắc mắc thêm về sức khỏe, các bạn hãy gọi điện đến tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia

Tags: bieu hien cua hivbieu hien cua benh hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Chế độ ăn cho tuổi dậy thì

Khi trẻ bước vào giai đoạn dậy thì mỗi ngày cần 2.200 - 2.400 calo, tương đương với lượng ăn của người trưởng thành. Nếu không cung cấp đúng và đủ trẻ sẽ bị thiếu hụt dinh dưỡng dẫn đến chậm hoàn thiện và phát triển các bộ phận cơ thể.

Dậy thì là lúc trẻ phát triển mạnh, nhanh về thể lực, sự thay đổi của hệ thần kinh, nội tiết mà nổi bật là sự hoạt động của các tuyến sinh dục tăng lên gây ra những biến đổi về hình thức và sự tăng trưởng của cơ thể trẻ. Lúc này, ngoài sự phát triển và hoàn thiện cơ thể cũng là lúc trẻ hoạt động nhiều nhất, nên cần phải có một chế độ dinh dưỡng thật tốt cho trẻ ở giai đoạn này.

Chất đạm: Trẻ dậy thì cơ bắp giai đoạn này phát triển nên lượng đạm cần cao hơn người trưởng thành. Chất đạm chiếm 14 - 15% tổng số năng lượng trong khẩu phần ăn hàng ngày. Lượng đạm lấy từ thực phẩm như thịt, cá, tôm, cua, trứng sữa… Trong đó đạm động vật là tốt nhất vì thức ăn có nguồn gốc động vật chứa nhiều sắt - chất sắt có vai trò quan trọng trong quá trình tạo máu.


Chất béo: Dầu, mỡ không chỉ giúp trẻ ăn ngon miệng mà còn là nguồn cung cấp năng lượng tốt và giúp cơ thể hấp thu các vitamin tan trong chất béo như vitamin A, D, E, K. Ở giai đoạn này cần cả chất béo no có trong thức ăn chứa nhiều đạm động vật và chất béo không no trong dầu ăn và cá, nên cho trẻ ăn cả mỡ động vật và dầu thực vật, khoảng 40 - 50gr mỗi ngày.

Chất bột: Là chất cung cấp năng lượng chính cho cơ thể chiếm 60 - 70% năng lượng có trong gạo, bột mì, và sản phẩm chế biến, khoai, củ… Nên chọn lựa những loại bột đường thô để cung cấp chất xơ tốt cho đường tiêu hóa và phòng chống béo phì.

Can xi: Can xi rất cần thiết cho lứa tuổi dậy thì, nếu được cung cấp đủ sẽ giúp xương chắc khỏe và độ đậm xương đạt mức tối đa giúp trẻ phát triển tốt về chiều cao và phòng được bệnh loãng xương sau này. Mỗi ngày trẻ cần 1.000 - 1.200mg can xi. Can xi có nhiều trong sữa, cả sữa bò và sữa đậu nành, các loại thủy sản, xương cá (nên kho nhừ cá để có thể ăn cả xương). Nên uống 400 -500ml sữa/ ngày.

Chất sắt: Bé gái khi bước vào tuổi dậy  thì cần lượng sắt nhiều hơn bé trai do mất máu trong chu kỳ kinh nguyệt. Nên bé trai chỉ cần 12 - 18 mg sắt/ngày trong đó bé gái cần tới 20 mg sắt/ngày. Chất sắt có nhiều trong thịt, phủ tạng động vật: gan, tim, bầu dục..., lòng đỏ trứng, đậu đỗ, rau xanh có nhiều vitamin C giúp hấp thu sắt tốt hơn… Nếu thiếu sắt trẻ sẽ bị thiếu máu gây ra các triệu chứng mệt mỏi, hay quên, buồn ngủ, da xanh…

Các vitamin: Đây là những vi chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Thiếu vitamin A có thể gây bệnh ở mắt, nhiễm khuẩn đường hô hấp và đường tiêu hóa; chậm phát triển chiều cao. Khi thiếu vitamin C, quá trình tổng hợp collagen gặp trở ngại, làm giảm quá trình hình thành tế bào ở các thành mạch, mô liên kết, xương, răng, giảm sức đề kháng.

Bác sĩ Thanh Hà

Theo Suckhoedoisong

Chú ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về sức khoẻ, nếu có những thắc mắc thêm về sức khỏe, các bạn hãy gọi điện đến tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia.

Tags: bieu hien cua hivbieu hien cua benh hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Bệnh tay - chân - miệng và những điều cần lưu ý

Bệnh tay - chân – miệng là bệnh truyền nhiễm có thể gây thành dịch do siêu vi trùng đường ruột gây ra, đặc trưng bởi sang thương phát ban kiểu bóng nước ở miệng, tay, chân kèm theo sốt. Bệnh có tiềm năng gây tổn thương thần kinh biểu hiện viêm não, viêm màng não, liệt, là nguy cơ tử vong hoặc để lại di chứng não về lâu dài làm trẻ khó thích ứng với xã hội.

Vài nét về bệnh tay – chân - miệng (BCTM)

Bệnh tay - chân - miệng (BTCM) được mô tả đầu tiên  năm 1956, rải rác khắp nơi trên thế giới nhưng chỉ được quan tâm trong khoảng 10 năm gần đây, từ khi 3 vụ dịch lớn đã xuất hiện trong những năm 1995, 1998 và 2000. Bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu và gần như quanh năm ở các nước nhiệt đới. Bệnh có thể gặp ở mọi tuổi nhưng phổ biến ở lứa tuổi nhỏ hơn 4 tuổi. Vấn đề BTCM mới được chú ý ở Việt Nam trong vài năm gần đây. Các xét nghiệm khẳng định bệnh cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn phức tạp và đắt tiền, không phải cơ sở y tế nào cũng thực hiện được.

Đường lây nhiễm chính của BTCM qua đường tiêu hoá, trực tiếp từ phân – miệng hoặc gián tiếp qua nước, thực phẩm, tay bẩn, bị ô nhiễm phân người bệnh, một số ít trường hợp được ghi nhận lây lan qua đường hô hấp.

Triệu chứng lâm sàng quan trọng: bóng nước ở  các vị trí tay, chân, miệng

Biểu hiện sớm nhất của bệnh là sốt nhẹ, chán ăn, mệt mỏi. Trong 1 đến 2 ngày bệnh sẽ phát ban là những nốt hồng ban đường kính vài mm nổi trên nền da bình thường, sau đó trở thành bóng nước. Sang thương ở miệng có dạng vết loét, có đường kính từ 4 – 8mm, thường ở phía trong miệng (61%), ở trên lưỡi (44%), tại vòm miệng (36%) hoặc ở lợi răng (15%) làm trẻ nuốt đau.

Với triệu chứng này cha mẹ thường nhầm lẫn với với bệnh viêm loét miệng thông thường. Những bóng nước ngoài da thường xuất hiện ở lòng bàn tay (52%), lòng bàn chân (31%), cẳng chân (13%), hoặc ở cánh tay (10%). Trẻ nhũ nhi có thể có ban dạng sẩn vùng mông (31%), nơi quấn tã lót.

Trong giai đoạn cấp, ngoài những dấu hiệu trên, đôi khi bệnh kèm theo triệu chứng như đau họng (76,2%) hạch ở cổ, hạch dưới hàm, ho, sổ mũi, nôn ói (20,7%), tiêu chảy (6,7%).


Ở một số ít trường hợp trong giai đoạn diễn tiến, siêu vi gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương, sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, li bì, mê sảng hay co giật.

Trẻ có thể tử vong hoặc hồi phục sau một thời gian điều trị vẫn còn những rối loạn tâm thần kinh kéo dài.

Những bệnh dễ nhầm lẫn với bệnh tay – chân - miệng:

Do bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu, cùng thời gian với những bệnh lý khác ở da  và tổn thương da là bóng nước nên cần phân biệt với bệnh viêm da bóng nước  do nhiễm khuẩn như tụ cầu và liên cầu, bệnh do nhiễm siêu vi Herpex simplex hoặc bệnh thủy đậu. Viêm da bóng nước do nhiễm khuẩn thường xuất hiện sau khi da  có vết trầy sướt, ghẻ, chàm… bị nhiễm trùng tạo ra bóng nước. Trẻ có vẻ mặt nhiễm trùng và thường kèm theo tổn thương những cơ quan khác trong bệnh cảnh nhiễm trùng huyết. Bóng nước do nhiễm Herpes simplex thường nổi thành từng chùm ở quanh miệng. Bóng nước do bệnh thủy đậu nổi rải rác toàn thân, bóng nước cũ xen lẫn bóng nước mới, có bóng nước trong lẫn bóng nước đục, và trẻ có tiếp xúc với người bị bệnh thủy đậu trong vòng 2 tuần trước đó. Sự hiện diện bóng nước ở cả 3 vị trí tay, chân miệng giúp loại trừ những bệnh lý khác để nhận diện bệnh.

Chăm sóc và điều trị BTCM

Trẻ mắc bệnh BTCM thường khỏi trong vòng một tuần lễ nếu được điều trị đúng cách, không có biến chứng. Những bóng nước mới đầu có dịch trong (lúc bội nhiễm sẽ gây đục), sau đó sẽ lành không để lại sẹo. Nếu không được điều trị đúng cách hoặc diễn tiến nặng sẽ gây những biến chứng rất nặng như nhiễm trùng huyết, viêm màng não, viêm não, viêm cơ tim. Biến chứng não rất dễ dẫn đến tử vong.

Hiện nay chưa có thuốc đặc trị BTCM vì vậy để giảm nguy cơ nhiễm trùng da niêm cần phải vệ sinh thân thể: cho trẻ súc miệng mỗi ngày, chăm sóc da bằng cách tắm nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng, tránh làm vỡ bóng nước hay trầy sướt da, thay quần áo sạch hàng ngày. Cắt ngắn móng tay để giảm tổn thương da do gãi ngứa. Cho ăn uống đầy đủ dưỡng chất và nhu cầu, cho trẻ uống nhiều nước như nước sôi để nguội, nước trái cây, nước canh, nước cháo.

Lưu ý trẻ bị BTCM không cần kiêng cữ gió và ánh sáng, không chọc vỡ bóng nước, không đắp lá cây vì sẽ gây nhiễm trùng da.

Theo dõi diễn biến các tổn thương da niêm và tình trạng chung của trẻ. Khi trẻ có những dấu hiệu như sốt cao, nhức đầu, nôn ói nhiều, lơ mơ, giật mình chới với, co giật, mệt nhiều cần phải đưa trẻ đến bệnh viện ngay để được điều trị biến chứng nặng của bệnh.

Phòng bệnh

Mặc dù xác định được nguyên nhân gây bệnh nhưng hiện nay vẫn chưa có thuốc chủng ngừa BTCM nên vấn đề chủ yếu là mọi người làm tốt công tác phòng bệnh giúp ngăn ngừa lây lan. Đó là những vấn đề cải thiện tình trạng vệ sinh môi trường, kiểm soát nước thải, sát trùng nước cung cấp. Diệt trùng và xử lý phân trẻ bệnh. Chú trọng vệ sinh thực phẩm và ăn uống: ăn thức ăn nấu chín kỹ, uống nước đun sôi để nguội, rửa tay sạch sau khi đi vệ sinh và trước khi cho trẻ ăn uống.

BSCK2 Nguyễn Thị Kim Thoa

Theo Bệnh Viện Nhi Đồng I

Chú ý: Trên đây la một số thông tin tham khảo về sức khỏe trẻ em. Nếu có những thắc mắc chung về sức khỏe, tâm lý hãy gọi điện cho tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ.

Tags: bieu hien cua hivbieu hien cua benh hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Dấu hiệu và cách trị viêm khớp tự phát ở trẻ

Bệnh viêm khớp tự phát ở trẻ em thuộc nhóm bệnh tự miễn, là tình trạng viêm khớp mạn tính kéo dài ít nhất 6 tuần, bệnh nhân bị bệnh trước 16 tuổi. Bệnh thường khởi phát sau khi nhiễm virut hoặc nhiễm khuẩn (Chlamydia mycoplasma, Streptococcus, Salmonella, Shigella).


Bệnh này không hiếm gặp nhưng rất ít cha mẹ hiểu biết rõ nên đa số trẻ thường được đưa đến chuyên khoa khám muộn. Một số trẻ em trước khi đến Bệnh viện Nhi đã đi khám, chữa hàng năm trời ở nhiều nơi nhưng không phát hiện bệnh dẫn tới bệnh tiến triển nặng, biến dạng khớp và nhiều biến chứng khác

Các triệu chứng của viêm khớp tự phát

Sốt, mệt mỏi, đau nhức cơ toàn thân và các triệu chứng này không giảm khi dùng thuốc giảm đau thông thường. Trẻ có thể bị nổi ban đỏ ở thân mình và các gốc chi, nhưng các mẩn đỏ này mất rất nhanh. Triệu chứng viêm khớp có thể xảy ra ngay từ đầu hay sau vài ngày, trẻ có thể bị sưng đau một vài hoặc nhiều khớp như khớp cổ tay, khớp gối, khớp háng, mắt cá chân...

Ở trẻ lớn thường là thể viêm ít khớp, chủ yếu ở một vài khớp to như khớp gối, khuỷu tay, khớp háng, nhưng cũng có thể gặp ở khớp thái dương hàm và khớp cổ. Nơi khớp sưng thấy phù nề, sờ nóng nhưng không đỏ và ít đau. Khi sụn khớp đã bị dính và xơ thì khớp trở nên cứng và hạn chế sự vận động kèm theo các cơ ở chi đó bị teo. Ngoài các triệu chứng ở khớp ra, trẻ có thể sốt cao, phát ban, hạch to, viêm thanh mạc, viêm màng phổi...

Điều trị viêm khớp tự phát thế nào?

Mục đích của điều trị là kiểm soát tiến triển của bệnh càng sớm càng tốt nhằm hạn chế đến mức tối đa những thương tổn gây phá hủy và biến dạng khớp, tối ưu hóa các vận động khớp nhằm đạt tới chức năng khớp bình thường cho bệnh nhân. Điều trị bao gồm các biện pháp không dùng thuốc và dùng thuốc...

Biện pháp không dùng thuốc (vật lý tri liệu)

Có thể dùng các biện pháp như sóng ngắn, tia hồng ngoại, tắm suối khoáng, tập các bài tập phục hồi chức năng vận động khớp... Tuy nhiên, trong thời gian đau nhiều có thể tạm thời bất động khớp nhưng cần lựa chọn tư thế sao cho giữ được biên độ vận động lớn nhất.


Cố gắng duy trì các sinh hoạt thường ngày của trẻ như khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động xã hội, học tập ở trường lớp bình thường như những đứa trẻ khác. Tuy nhiên, trong những đợt tiến triển nên cho trẻ nghỉ ngơi, chế độ dinh dưỡng tốt và đặc biệt có giấc ngủ đầy đủ.

Biện pháp dùng thuốc bao gồm thuốc giảm đau thông thường, thuốc chống viêm giảm đau và các thuốc điều trị cơ bản tức thuốc tác động vào hệ thống miễn dịch của cơ thể nhằm làm giảm, khống chế quá trình viêm khớp.

Do đặc thù bệnh khởi phát ở tuổi trẻ em, tổn thương nhiều vị trí, có thể có những biến chứng ảnh hưởng xấu đến việc sinh hoạt của trẻ nên việc điều trị cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa như thấp khớp học, nhi khoa, phục hồi chức năng, chuyên gia tâm lý kết hợp với sự chăm sóc của gia đình.

BS. Trần Quang Nhật

Theo sức khỏe $ đời sống

Chú ý: Trên đây la một số thông tin tham khảo về sức khỏe trẻ em. Nếu có những thắc mắc chung về sức khỏe, tâm lý hãy gọi điện cho tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ.

Tags: bieu hien cua hivbieu hien cua benh hivbieu hien nhiem hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Chăm sóc da trẻ trong mùa lạnh

Da con trẻ thật mịn màng, mong manh, rất nhạy cảm và là bộ phận tiếp xúc nhiều nhất với môi trường thiên nhiên cũng như những tác động tốt và xấu từ bên ngoài.Mỗi khi giao mùa, khí hậu thường thay đổi  làm cho cơ thể con người nếu thích nghi không kịp sẽ có những phản ứng không mong muốn.

Nhạy cảm như trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh, khi chuyển mùa từ nắng sang mưa, từ khô sang ẩm, lạnh, càng cần phải đặc biệt chú ý và chăm sóc sức khỏe cẩn thận.

Khi thời tiết thay đổi, bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khí hậu là da và đường hô hấp. Thường da của chúng ta sẽ khô ráp hơn, có khi có cảm giác bong tróc , hơi rát và nếu da quá khô, sẽ bị sần sù, dễ bong vẩy . Ở  trẻ nhỏ da sờ thấy thô ráp hơn, dễ ửng đỏ, hoặc có nhiều mụn rộp nhỏ và nếu không kịp thời phòng ngừa , thì khô da dễ dẫn đến chàm da. Khi đã bị chàm trẻ dễ bị tái đi tái lại.


Ở trẻ nhỏ, nhất là ở trẻ có cơ địa dị ứng, hoặc tiền căn gia đình dị ứng như có người nhà bị viêm mũi dị ứng , nồi mề đay hay suyễn thì  trẻ dễ bị chàm khi  khô da hơn những trẻ khác. Đôi khi trẻ không thuộc cơ địa dị ứng nhưng do bị ủ nhiều trong quần áo hay tả lót trẻ cũng dễ nổi rôm sẩy hay hăm , đó là những nốt nhõ li ti trên mảng da đỏ, gây cho trẻ ngứa ngáy khó chịu. Trẻ sẽ quấy khóc , nhất là ban đêm, bứt rứt và đôi khi chán cả ăn.

Do đó khi thời tiết chuyển sang lạnh , phụ huynh nên lưu ý:

-          Giữ ấm cho trẻ, mang vớ đội mũ khi ra ngoài. Trong phòng giữ ấm và thoáng cho trẻ. Tuy vậy không quá ủ bé, và nếu bé có toát mồ hôi, phải kịp thời lau cho bé
-          Uống nước nhiều, giúp da và đường hô hấp luôn ẩm.
-          Bú sữa mẹ càng lâu càng tốt, ăn dặm đúng lúc và đúng cách, nhằm cung cấp đầy đủ những dưỡng chất và vitamin cần thiết cho sự phát triển của trẻ, và giúp cho  hệ miễn dịch cơ thể phát triển tốt.
-          Chích ngừa đầy đủ cho trẻ.
-          Khi da bé hơi khô, nên bôi những loại kem giữ ẩm cho bé. Lưu ý những loại kem dành cho trẻ phải được tư vấn từ nhân viên y tế, đặc biệt ở trẻ có vấn đề dị ứng da. Không được tự ý sử dụng kem có chứa corticoid ở trẻ nhỏ như kem bảy màu, kem cortibion,v.v..
-          Tắm rửa cho trẻ  mỗi ngày, ngay cả khi trời lạnh , nhưng bằng nước ấm.
-          Khi bé hắt hơi sổ mũi thì nên nhỏ mũi bằng nước muối sinh lý, mát xa lưng và tay chân trẻ bằng ít dầu khuynh diệp để kích thích máu huyết lưu thông , tăng cường miễn dịch.
-          Khi trẻ bệnh nên đưa đi khám, không nên tự ý dùng thuốc.

BS.CK2.Nguyễn Thị Thanh
Bệnh viện Nhi Đồng 2

Trên đây là một số thông tin tham khảo về sức khoẻ trẻ em. Để biết thêm thông tin về sức khoẻ, tâm lý các bạn hãy gọi điện tới tổng đài chăm sóc sức khoẻ trực tuyến 19008908 hoặc 19008909 để nhận được hỗ trợ trực tiếp từ các chuyên gia.

Tags: thuoc chong phoi nhiem hivthuốc chống phơi nhiễm hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net


Phương pháp trị hăm tã cho trẻ

Khi trời nóng hoặc ở trẻ ra mồ hôi nhiều, rôm sảy có thể xuất hiện, đó là những mụn nhỏ li ti và gây ngứa, nếu nó xuất hiện trên mảng đỏ ở vùng mặc tả thì đó là hăm tả.

Hăm  là phản ứng của da khi hệ thống bài tiết tại da bị bít kín như đổ mồ hôi nhiều mà không được thông thoáng, da bị tổn thương, hăm có thể gây ra mụn nhọt nếu như bé gãi vì ngứa ngáy , da sẽ bị trầy sướt, dễ nhiễm khuẩn hoặc có thể nhiễm nấm do ẩm ướt.

Hăm có thể gặp khi trẻ bị tiêu chảy, sốt , mọc răng, hay dùng nhiều kháng sinh,.. và gặp nhiều ở trẻ từ 6 đến 12 tháng.

Thông thường nếu thấy da bé bị ửng đỏ và còn tồn tại  sau 2-3 ngày hoặc lan rộng thì có thể vùng da đó đã bị bội nhiễm hay nhiễm nấm, cần phải được khám và điểu trị kịp thời.

Để phòng hăm:

- cần cho bé mặc đồ bằng chất liệu cotton 100%, và vừa vặn, không chật quá cũng không rộng quá.

- Ở trẻ nhỏ còn quấn tả nên  kiểm tra xem tả giấy có vừa với cháu không, mặc tả nhỏ hơn hoặc quá rộng đều không có lợi cho da của cháu bé, ngoài ra chất lượng của tả rất quan trọng, tả tốt là phải có tính thấm nước cao.

- khi tả đã đủ ướt, không còn khả năng thẩm thấu thì phải được thay tả mới ,  vệ sinh nhẹ nhàng bằng nước sạch, và thấm khô sau đó, không nên lau bằng giấy. Thường các cháu bị hăm tả, đỏ quanh vùng mặc tả là do để tả ướt quá lâu.

- Có thể tắm cháu bằng nước vừa ấm, tránh nước quá nóng làm da càng bị tổn thương  thêm. Dân gian thì tắm bằng nước khổ qua, sài đất…nếu có rôm sẩy thì nên hứng nước mưa để tắm hay lấy nước mưa khoát nhẹ vào những chỗ có hăm đỏ thì sẽ làm da dịu lại.

- Bạn có thể dùng nước sát trùng để pha tắm rửa cho bé như dung dịch Cyteal, Saforelle v.v…và cần nhất là phải đọc kỹ cách sử dụng trước khi dùng. Quan trọng là phải để da bé thông thoáng. Những phương pháp dân gian như dùng trà xanh hay nước khổ qua cũng tốt cho da bé.

- ở trẻ có da nhạy cảm hoặc có tiền căn dị ứng thì bất cứ thứ gì tiếp xúc với da bé cũng nên thử trước, nếu như vài giờ sau khi thử trước ở một vùng cánh tay không thấy dị ứng , nổi đỏ thì chúng ta có thể sử dụng cho bé.

- Không nên dùng phấn để rắc vào chỗ hăm vì có thể làm nặng thêm vùng da đang bị tổn thương. Cũng không nên sử dụng các loại kem thoa có chứa corticoid trừ trường hợp được Bs hướng dẫn cách sử dụng. Chỉ nên thoa Vaseline hoặc lớp Oxyt kẽm để bảo vệ da trước khi quẩn tả.

Lưu ý:

+ Nên lau tay sau mỗi lần thay tả.

+ Nên cho trẻ bú mẹ nhiều , ngăn ngừa được nhiễm khuẩn.

+ Nên để thông thoáng cho trẻ, nếu phải quấn tả thường xuyên thì nên chọn thử nhiều loại tả, xem cháu bé phù hợp với loại nào nhất.

BS.CK2 Nguyễn Thị Thanh

BV Nhi Đồng 2

Trên đây là một số thông tin  tham khảo về sức khoẻ trẻ em. Để biết thêm thông tin về sức khoẻ, tâm lý các bạn hãy gọi điện đến tổng đài chăm sóc sức khoẻ trực tuyến 19008908 hoặc 19008909 để nhận được hỗ trợ trực tiếp từ các chuyên gia.

Tags: thuoc chong phoi nhiem hivthuốc chống phơi nhiễm hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net


Bạn đã cho bé uống nước trái cây đúng cách?

Một số bé uống quá nhiều nước trái cây hằng ngày có thể bị dư cân, béo phì, sâu răng. Do lượng hydrate carbon trong nước trái cây cao nên dùng nhiều có thể khiến bé bị đầy bụng, khó tiêu thậm chí đau bụng. Đặc biệt khi bé bị tiêu chảy, cha mẹ không nên cho bé uống nước trái cây vì có thể làm bé tiêu chảy nhiều hơn.

Khi mua nước trái cây cho bé, cha mẹ nên mua loại đóng hộp nguyên chất 100% đã được thanh trùng vì loại nước trái cây này thường không có chất bảo quản và các chất tạo mùi, dù giá cả có đắt hơn so với những loại khác.

Nếu bé thích uống ngọt, có thể cho đường thêm khi uống. Đối với trẻ nhỏ (dưới 3 tuổi) nên cho bé uống nước trái cây pha loãng theo tỷ lệ 25% nước trái cây, 75% nước đun sôi để nguội vì nước trái cây chứa nhiều đường, không tốt cho sức khỏe của trẻ.

5 lý do để mẹ không cho con uống nhiều nước trái cây


Nước ép trái cây tốt nhưng không phải vì thế mà mẹ nên cho trẻ uống nhiều. (Ảnh minh họa)

Trong 6 tháng đầu đời, bé không cần thiết bổ sung nước ép hoa quả giàu dinh dưỡng bởi vì lượng đường tự nhiên trong hoa quả quá cao so với trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, khi bước sang tuổi ăn dặm, hoa quả sẽ là những thức ăn mới đầu tiên bé được nếm thử.

Cách chế biến nước trái cây cho bé

Các loại nước hoa quả cho bé tuổi ăn dặm
Nguyên tắc

- Cho bé uống bằng thìa, không cho bé uống nước quả bằng bú bình

- Chỉ uống sau bữa ăn, không uống trước khi đi ngủ.

- Pha loãng nước rau quả bằng cách thêm nước sôi để nguội (10 nước sôi để nguội + 1 nước cốt)

- Lượng nước rau quả tối đa là 120ml/4 lần ngày.

- Không nên cho bé uống các loại nước rau quả quá ngọt.

Cách chế biến một số loại nước quả thông dụng

Nước dừa: Nước dừa có thể coi là thức uống hoàn hảo, rất giàu các khoáng chất như kali, natri, canxi, magie, sắt, đồng, phốtpho, vitamin nhóm B và vitamin C.

Cách làm: Khi mới bắt đầu, chỉ cho uống 2-3 thìa cafe và tăng lượng lên dần dần. Nước dừa cho bé phải là nước dừa non, tươi, tránh cho bé uống nước từ các quả dừa có màu nâu.

Nước cà rốt: Cà rốt rất giàu vitamin A, phốtpho, magie, canxi, kali, natri và sắt.

Cách làm: Xắt nhỏ cà rốt và xay nhuyễn, lọc bỏ bã. Pha 1 phần nước cốt cà rốt với 10 phần nước, cũng có thể cho thêm một nửa phần nước táo ép để tăng hương vị.

Nước nho: Nho rất giàu flavonoid, các chất chống ôxy hóa và vitamin.

Cách làm: Xay 1 nhúm nhỏ nho lấy nước cốt. Pha một phần nước cốt với 10 phần nước đun sôi để nguội. Không cho thêm đường vì nho đã ngọt sẵn rồi.

Nước táo màu hồng đào: Rất giàu vitamin A, canxi, folate, magie, phốtpho.

Cách làm: Đổ 1 chén nước vào 1 chén táo cắt lát rồi đun sôi trong khoảng 2 phút rồi đem xay nhuyễn lọc bỏ bã. Rồi thêm 1 nửa phần nước cà rốt để có được ly nước táo mang màu sắc và hương vị mới.

Nước dưa hấu: Rất giàu vitamin A, vitamin C, canxi.

Cách làm: Xay hoặc dầm nửa cốc dưa hấu cắt lát, lọc bỏ bã. Cho bé uống luôn nước cốt nhưng nhớ là chỉ uống lượng nhỏ.

* Lưu ý: Nếu bé nhà bạn có vấn đề về tiêu hóa thì không nên uống trước 1 tuổi.

Sữa hoa quả: là sự hòa quyện của sữa và các loại quả. Sữa rất giàu canxi còn hoa quả thì giàu vitamin A và C, phốtpho, axit folic, sắt, flavonoid, các chất chống ôxy hóa và chất xơ.

Cách làm:1/2 cốc 1 loại quả (chuối, táo, xoài, và dâu tây) xắt lát đem ép, xay hoặc nghiền rồi trộn với 1 cốc sữa. Về lượng, bạn có thể tăng thêm hoa quả, giảm bớt sữa hoặc ngược lại, tùy theo khẩu vị của bé. Đừng cho thêm đường vì các loại quả đã có ngọt sẵn rồi.

Sữa chua hoa quả: Công thức giống sữa hoa quả nhưng thay sữa bột pha bằng sữa chua hay phômai tươi mềm.

Sinh tố chuối: Rất giàu phốtpho, canxi, folate, magie.

Cách làm: 1 quả chuối xắt lát, 1/4 tách phômai mềm/sữa chua, 1/4 tách nước cam đem trộn đều trong máy xay sinh tố và cho bé ăn ngay hỗn hợp mịn như kem này.

Sinh tố xoài: Rất giàu vitamin A, canxi, folate, magie

Cách làm: 1/2 cốc xoài xắt lát, 1/4 cốc phômai tươi/sữa chua trộn đều bằng máy xay sinh tố và cho bé ăn ngay.

Sinh tố dâu tây: Rất giàu vitamin A, canxi, folate, magie

Cách làm: Xay sinh tố 1/2 cốc dâu tây rửa sạch và 1/4 cốc phômai tươi/sữa chua rồi cho bé ăn ngay.

* Lưu ý: phômai tươi không được quá chua. Nếu không muốn dùng phômai tươi, bạn có thể tạo độ sánh cho sinh tố bằng cách cho các loại quả như xoài, chuối.

Lưu ý dành cho các bà mẹ

- Luôn chọn rau quả tươi mới và nên mua rau quả theo mùa, không mua rau quả đông lạnh hay trái vụ. Sơ chế (rửa, gọt, bóc) sạch sẽ vì nước rau quả không thể đun sôi lâu.

- Chỉ cho bé thử 1 loại thức ăn mới/rau quả mới ở 1 thời điểm. Khi bé đã quen mới kết hợp 2-3 loại rau quả. Theo dõi phản ứng của bé mỗi khi nếm một loại quả mới. Nếu bé bị dị ứng thì cần tránh tuyệt đối trong những lần sau.

- Nước rau quả luôn là lựa chọn lý tưởng nhưng phần nhiều bé thích nước quả hơn nước rau. Vậy nên cần biết kết hợp như cà rốt – táo, cà chua – cà rốt để hương vị thơm ngon hơn. Ngoài ra, có thể cho thêm chút rau mùi, bạc hà để làm tăng hương vị cho nước uống.

- Chế biến nước quả tại nhà bằng các nguyên liệu tươi ngon thay vì các loại nước quả đóng gói (vốn rất nhiều đường).

- Không cho thêm đường, muối, mật ong vào nước quả vì có thể gây rối loạn tiêu hóa. Hãy để bé làm quen với hương vị tự nhiên của thực phẩm.

- Không bao giờ cho bé uống nước quả hay sinh tố để lâu quá 20 phút vì sẽ làm thay đổi hương vị và dễ nhiễm khuẩn. Ngay khi thao tác xong, bé cần phải được uống ngay.

Cho bé uống nước trái cây đúng cách

Nước trái cây ngon ngọt, bổ dưỡng nên một số phụ huynh cho bé uống thay sữa hoặc bột ngũ cốc mỗi ngày. Điều ấy nên chăng?

Chị Nguyên nghe lời khuyên bác sĩ nên hằng ngày cho Susi uống các loại nước trái cây thay sữa. Hai tháng tiếp theo Susi không giảm thậm chí còn tăng cân nhiều hơn trước.

Khi cho bé tái khám, chị Nguyên mới phát hiện nguyên nhân con mình tăng cân nhiều là do chị cho bé uống quá nhiều nước trái cây trong khi chúng giàu năng lượng không kém sữa.

Khi nào bé có thể uống nước trái cây?

Các chuyên gia về dinh dưỡng khuyên trẻ dưới 6 tháng tuổi không cần uống nước trái cây do nguồn sữa mẹ hay sữa công thức đã cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cần thiết cho bé. Ngoài ra, nước trái cây có thể khiến trẻ dưới 6 tháng đầy bụng bỏ bú, bỏ bữa.

Viện nhi khoa Mỹ thậm chí còn khuyến cáo không nên cho trẻ dưới 1 tuổi uống nước trái cây nhằm bảo vệ sức khỏe răng miệng cho bé.

Theo thông tin của Viện nhi khoa Mỹ (AAP), bé từ 1-6 tuổi nên uống khoảng 120-180ml nước trái cây/ngày. Trẻ từ 7 tuổi đến 18 tuổi có thể uống nhiều hơn nhưng tối đa là 240-360ml/ngày.

Cha mẹ nên sử dụng nước trái cây cho bé như một phần của bữa ăn chứ không phải là một bữa ăn chính và nên cho bé uống 1 cốc nước trái cây một lần thay vì đựng nước trái cây trong chai cho bé uống lai rai cả ngày khiến bé dễ bị sâu răng do thường xuyên tiếp xúc với chất hydrate carbon hàm lượng cao trong nước trái cây.

Những lưu ý khi cho bé uống nước trái cây

Trái cây và các loại nước trái cây có chứa hàm lượng hydrat carbon lớn, một số vitamin và một lượng nhỏ các khoáng chất nhưng lại ít chất béo và protein.


Do vậy, trái cây và các loại nước ép trái cây không thể thay thế cho sữa hay ngũ cốc. Nếu dùng thay sữa hay ngũ cốc về lâu dài sẽ khiến cơ thể bé thiếu chất protein, chất béo, can-xi, sắt, các loại vitamin và kẽm.

Các chuyên gia dinh dưỡng cũng khuyên phụ huynh không nên cho bé uống nước trái cây trước bữa ăn vì nước trái cây chứa nhiều calorie chủ yếu từ các loại đường hoặc hydrate carbon.

Nếu dùng trước bữa ăn chính sẽ khiến bé đầy bụng, giảm thèm ăn đối với các loại thực phầm bổ dưỡng khác có chứa nhiều protein và chất béo cần thiết cho sự phát triển và bảo đảm sự cân bằng dinh dưỡng cho bé.

Nước trái cây có thể giúp bé bớt táo bón, nhuận tràng hơn. Một số trẻ nhỏ dưới 4 tháng có thể dùng nước trái cây như một cách thức chữa trị chứng táo bón.

Tuy nhiên, phụ huynh nên tập cho bé thói quen thích ăn trái cây hơn là chỉ uống nước vì trái cây có chứa các chất xơ, trong khi các loại nước trái cây không có. Do vậy, nếu cho bé ăn nguyên quả sẽ tốt hơn nhiều so với uống nước ép từ loại trái cây đó.

- Học viện nhi khoa Mỹ tiến hành nghiên cứu và cho thấy: những bé được cha mẹ cho uống quá nhiều nước trái cây mỗi ngày (khoảng 300-400ml/ ngày) hoặc sẽ lâm vào tình trạng không tăng cân, hoặc là tăng cân quá nhiều.

Lý do được đưa ra ở đây là do lượng đường tự nhiên có trong nước trái cây làm cho trẻ có cảm giác lúc nào cũng thấy no và sẽ ăn ít hơn so với nhu cầu của bé, dẫn đến tăng cân không đủ. Trong khi đó ở một số bé khác thừa kalo do nước quả, cộng với ăn uống thường xuyên và dẫn tới thừa cân.

- Uống quá nhiều nước trái cây có thể khiến bé bị đi ngoài phân lỏng, nặng hơn là tiêu chảy. Nguyên nhân là do phần lớn nước hoa quả đều chứa chất sorbitol (một hợp chất khó tiêu của đường). Nếu lượng sorbitol vượt ngưỡng cho phép, cơ thể bé sẽ cần nhiều nước hơn bình thường – yếu tố tăng tình trạng tiêu chảy. Người lớn cũng khó tiêu hóa nếu hấp thu quá nhiều sorbitol.

- Nước quả khiến bé đầy bụng, gây giảm cảm giác thèm ăn, nhất là với những thực phẩm lành mạnh khác.

- Nước quả thường chỉ cung cấp một (hoặc hai) chất dinh dưỡng (thường là vitamin C) trong khi sữa và các thực phẩm khác giàu dinh dưỡng hơn.

- Uống nước quả bằng bình sữa có thể dẫn đến sâu răng vì lượng đường tự nhiên có trong nước quả rất cao.

- Về liều lượng: Học viện nhi khoa Mỹ khuyến cáo, bé 1-6 tuổi nên giới hạn khoảng 120ml nước quả/ngày (nước quả tự ép là tốt nhất), bé 7-18 tuổi, tối đa là 240ml nước quả/ngày.

- Trên thực tế thì nước hoa quả có đầy đủ các vitamin như trong hoa quả tươi nhưng lại thiếu đi chất xơ. Vì vậy bên cạnh việc cho con uống nước hoa quả, cha mẹ nên tạo thói quen ăn hoa quả tươi cho bé.

- Nước cam hoặc những loại quả thuộc họ cam như bưởi, quýt chứa nhiều axit có vị chua, dễ gây tiêu chảy cho bé. Đó là lý do vì sao, bác sĩ khuyến cáo, bạn nên cho bé uống nước cam ít nhất khi bé đã được một tuổi. Đây là thời điểm hệ tiêu hóa của bé tương đối hoàn thiện (dễ dàng hấp thu được loại axit có trong cam, quýt).

- Mẹ tuyệt đối tránh cho đường, mật ong hoặc bất kỳ chất nào vào nước hoa quả cho bé để tránh rối loạn tiêu hóa.

- Mẹ nên tự làm nước hoa quả cho bé uống thay vì mua đồ hộp. Ngay sau khi chế biến, mẹ nên cho bé uống nước hoa quả ngay. Tránh cho bé uống nước quả đã để bên ngoài quá 20 phút.

- Mẹ chỉ nên cho bé thử một loại nước hoa quả (hoặc hoa quả) tại một thời điểm. Khi bé quen rồi mẹ mới có thể kết hợp 2-3 món hoa quả với nhau. Tiếp đến, mẹ nên theo dõi phản ứng khi bé thử loại hoa quả mới. Nếu bé xuất hiện dấu hiệu dị ứng hoặc tiêu chảy, mẹ nên cẩn thận.

- Tuyệt đối không đựng nước hoa quả vào bình, chai để cho trẻ ngậm uống vì cách uống này thường khiến cho trẻ ngậm mút trong một thời gian dài, a-xít từ các loại hoa quả sẽ làm hỏng men răng bé. Thay vào đó hãy đổ nước hoa quả đã hòa vào một chiếc tách và cho bé uống hết ngay một lúc.

- Mẹ cũng không nên cho bé uống nước trái cây trước giờ đi ngủ vì a-xít trong nước trái cây có thể làm bé bứt rứt, khó ngủ.

Nguồn tổng hợp

Chú ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về sức khoẻ trẻ em, nếu có những thắc mắc thêm về sức khỏe, các bạn hãy gọi điện đến tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia.

Tags: thuoc chong phoi nhiem hivthuốc chống phơi nhiễm hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Nguyên nhân trẻ chậm mọc răng

Trẻ 8-9 tháng mới mọc răng nhưng nếu vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần thì đó là do sinh lý. Ngược lại, chậm mọc răng và kết hợp thêm các dấu hiệu như chậm lên cân, chiều cao, hay các triệu chứng còi xương thì là do còi xương.

Những chiếc răng sữa đầu tiên của bé mọc vào lúc bé được khoảng 6 tháng tuổi, và bé có đủ 20 chiếc răng sữa khi được khoảng hai đến hai tuổi rưỡi. Số lượng răng là một trong những dấu hiệu dùng để theo dõi sự phát triển thể chất của trẻ. Những chiếc răng đầu tiên mọc lên báo hiệu trẻ có thể bắt đầu ăn các thức ăn đặc hơn sữa. Số răng của trẻ có liên quan đến số tháng tuổi: thông thường số răng bằng số tháng tuổi trừ đi 4.


Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ: có vài trẻ sinh ra đã có sẵn 1-2 răng, hoặc có một số trẻ đến 8-9 tháng mà vẫn chưa mọc chiếc răng cửa đầu tiên. Những vấn đề này có thể hoàn toàn là sinh lý, nếu như trẻ vẫn phát triển tốt về tất cả mọi mặt khác: thể chất và tinh thần.

Điều cần quan tâm là phát hiện sớm các trường hợp chậm mọc răng có liên quan đến thiếu dinh dưỡng, thiếu canxi, còi xương do thiếu vitamin D... để kịp thời cải thiện chế độ dinh dưỡng và chăm sóc trẻ cho phù hợp. Trẻ chậm mọc răng thường do thiếu canxi để phát triển các mầm răng. Thức ăn chính của trẻ là sữa. Sữa là loại thức ăn giàu canxi nhất và dễ hấp thu nhất nên trẻ không thiếu nguồn cung cấp canxi, trừ những trẻ bú mẹ mà mẹ ăn uống kiêng khem làm giảm chất lượng của nguồn sữa.

Tỷ lệ canxi trong thức ăn được hấp thu liên quan đến một tỷ lệ phù hợp của một chất khoáng khác là phốtpho, có nhiều trong các loại ngũ cốc, các loại rau, củ... Khi tỷ lệ phốt pho quá cao, sự hấp thụ canxi sẽ giảm đi.

Một chất nữa cần thiết cho sự hấp thụ canxi là vitamin D. Có 2 nguồn cung cấp vitamin D cho trẻ là thức ăn và từ ánh sáng mặt trời, trong đó nguồn cung cấp chủ yếu là từ ánh sáng mặt trời (chiếm tới 80%). Thức ăn động vật (thịt, cá, trứng, sữa) chứa nhiều vitamin D hơn với một tỷ lệ hấp thụ cao hơn thức ăn có nguồn gốc thực vật. Tuy nhiên, vì vitamin D là một loại vitamin tan trong dầu nên nếu chế độ ăn không có đủ chất béo thì dù ăn nhiều thức ăn động vật, vitamin D vẫn không thể hấp thụ được vào cơ thể.

Để phòng tình trạng còi xương ở trẻ, các bà mẹ nên chú ý một số điều sau:

- Mẹ trong giai đoạn có thai và cho con bú cần ăn uống đầy đủ chất, không kiêng khem, uống thêm 1-2 ly sữa mỗi ngày. Bắt đầu cho trẻ (và cả mẹ) tắm nắng vào buổi sáng từ lúc trẻ được 1 tháng tuổi, liên tục đến khi trẻ biết đi. Thời gian tắm nắng trung bình 15-30 phút mỗi ngày, trẻ có da sậm màu hơn phải tắm lâu hơn trẻ có da sáng.


- Không pha sữa cho trẻ bằng các loại nước cháo, nước bột, nước rau củ... và nhất là nước khoáng, lượng khoáng chất cao trong những loại nước này sẽ làm giảm hấp thu canxi.

- Trong chế độ ăn của trẻ luôn cung cấp đầy đủ chất đạm, nhất là đạm động vật và chất béo: Mỗi bát thức ăn của trẻ phải thêm 1-2 thìa dầu ăn.

Khi trẻ chậm mọc răng, nếu kết hợp thêm các dấu hiệu của một tình trạng thiếu dinh dưỡng chung như chậm phát triển cân nặng, chiều cao và các triệu chứng của còi xương như ngủ không ngon giấc ban đêm, hay giật mình khóc thét, có những cơn khóc ngất tím cả người, đổ mồ hôi trộm ban đêm, bẹp hộp sọ, lồng ngực lép, thóp rộng... thì chậm mọc răng ở trẻ là do còi xương. Cần gia tăng khẩu phần dinh dưỡng hằng ngày cho trẻ, nhất là sữa và các chế phẩm từ sữa, thức ăn động vật, chất béo... Việc bổ sung thêm vitamin D và canxi dưới dạng thuốc là cần thiết tuy nhiên phải được chỉ định của bác sĩ. Các bà mẹ không được tự ý sử dụng vitamin D, vì có thể làm trẻ bị ngộ độc khi dùng liều cao hoặc thời gian dùng quá dài.

(Theo Sức khỏe và Đời sống)

Chú ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về sức khoẻ trẻ em. Nếu có thắc mắc chung về sức khoẻ, tâm lý hãy gọi điện cho tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ.

Tags: thuoc chong phoi nhiem hivthuốc chống phơi nhiễm hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net


Nhức mỏi chân ở trẻ có phải do thiếu canxi?

Con gái tôi 4 tuổi, cao 1m. Mấy ngày gần đây, bé thường hay kêu mỏi hai đầu gối về ban đêm, bé không có biểu hiện gì khác... Xin hỏi bác sĩ nguyên nhân nào khiến bé bị như vậy? Có phải do cháu thiếu canxi? Nguyễn Thúy Hà (hahuyentrang81@gmail.com)


Chứng nhức mỏi chân ở trẻ có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu hay gặp là do hệ xương của trẻ đang trong giai đoạn phát triển nhanh, nhất là xương cẳng chân. Đây là than phiền hay gặp ở trẻ em tuổi đi học (3 - 7 tuổi) sau 1 ngày chạy nhảy, vận động nhiều hoặc có té ngã. Nếu bé bị đau do bé vận động nhiều hoặc do tiếp xúc, va chạm với các vật cứng thì không có vấn đề gì đáng lo ngại. Tuy nhiên, đau khớp gối, nhức chân nếu xảy ra bất chợt và tái đi tái lại kèm theo: sốt cao kéo dài, xanh xao, bầm hay chảy máu răng, chảy máu mũi hoặc sưng đau khớp gối, không đi được... có thể là những dấu hiệu sớm của ung thư máu trẻ em.

Trường hợp con gái chị kêu mỏi 2 đầu gối về đêm và không kèm theo biểu hiện nào khác thì chị cứ yên tâm, đó chỉ là đau khớp tăng trưởng. Sở dĩ trẻ thường đau mỏi vào ban đêm vì đó là thời điểm xương phát triển nhanh nhất. Do cháu đang ở thời kỳ xương phát triển quá nhanh trong khi các chất cần thiết cho sự phát triển của xương như sắt, canxi không được cung cấp kịp thời. Nếu do nguyên nhân này thì không đáng ngại, chỉ cần bổ sung thêm canxi (dưới dạng thuốc, sữa và các thức ăn có chứa nhiều canxi) là bé sẽ khỏi. Nhưng nếu là đau mỏi khớp gối kèm theo các biểu hiện như nói ở trên thì không được chủ quan mà phải đưa bé đến khám và làm xét nghiệm máu tại khoa nhi hoặc bệnh viện nhi... Sau khi tìm được nguyên nhân, bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị thích hợp cho bé.

Bs. Vũ Hồng Ngọc- Sức khoẻ và đời sống

Chú ý: Trên đây là những thông tin tham khảo về sức khoẻ trẻ em. Nếu có thắc mắc chung về sức khoẻ, tâm lý hãy gọi điện cho tổng đài 19008909 hoặc 19008908 để nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ.

Tags: thuoc chong phoi nhiem hivthuốc chống phơi nhiễm hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Vàng da ở trẻ sơ sinh có cần điều trị?

Vàng da sơ sinh là do tăng bilirubin gián tiếp rất hay gặp, chiếm 25 - 30% ở trẻ đủ tháng và đa số ở trẻ non tháng. Bệnh thường xảy ra trong tháng tuổi đầu tiên nhưng nguy hiểm nhất là trong 2 tuần đầu. Vàng da sơ sinh có thể ở mức độ nhẹ (vàng da sinh lý) nhưng cũng có thể tiến triển nặng (vàng da bệnh lý).

Thế nào là vàng da sinh lý ở trẻ sơ sinh?

Ở trẻ đủ tháng, bình thường thì vàng da được coi là sinh lý khi vàng da xuất hiện sau 24 giờ tuổi. Hết trong vòng 1 tuần với trẻ đủ tháng và 2 tuần đối với trẻ non tháng. Mức độ vàng da nhẹ (chỉ vàng da vùng mặt, cổ, ngực và vùng bụng phía trên rốn). Vàng da đơn thuần, không kết hợp các triệu chứng bất thường khác (thiếu máu, gan lách to, bỏ bú, lừ đừ...). Nồng độ bilirubin/máu không quá 12mg% ở trẻ đủ tháng và không quá 14mg% ở trẻ non tháng...Tốc độ tăng bilirubin/máu không quá 5mg% trong 24 giờ.

Thế nào là vàng da bệnh lý ở trẻ sơ sinh?

Vàng da được coi là bệnh lý khi có bất thường từ một trong số các tiêu chuẩn sau:

- Vàng da đậm xuất hiện sớm;

- Không hết vàng sau 1 tuần với trẻ đủ tháng và 2 tuần đối với trẻ non tháng;

- Mức độ vàng toàn thân và cả mắt;

- Vàng da kết hợp các triệu chứng bất thường khác (trẻ lừ đừ, bỏ bú, co giật...);

- Xét nghiệm bilirubin trong máu tăng hơn bình thường.

Khi có các dấu hiệu vàng da bệnh lý như nói trên, cần phải đưa ngay trẻ đi khám bác sĩ chuyên khoa Nhi để được chẩn đoán và điều trị  càng sớm càng tốt.

Các phương pháp điều trị vàng da sơ sinh?


Cho đến nay, tại các khoa sơ sinh, điều trị vàng da sơ sinh bằng 3 phương pháp chính, đó là:

- Cung cấp đầy đủ nước và năng lượng (qua cho bú hoặc truyền dịch), truyền albumin và dùng một số loại thuốc để gia tăng tốc độ chuyển hoá bilirubin gián tiếp.

- Chiếu đèn là phương pháp điều trị vàng da sơ sinh hiệu quả nhất, an toàn, đơn giản và kinh tế nhất.

- Thay máu khi bé có triệu chứng đe dọa nhiễm độc thần kinh do bilirubin trong máu tăng cao.

Tùy trường hợp cụ thể, các bác sĩ có thể sử dụng 1 - 2 hay 3 phương pháp cùng lúc.

Chiếu đèn điều trị vàng da được chỉ định khi nào?

Chiếu đèn là sử dụng ánh sáng có bước sóng từ 400 - 500nm, cực điểm 450 - 460nm tương ứng với đỉnh hấp thụ của bilirubin (ánh sáng màu xanh dương). Khi chiếu đèn năng lượng, ánh sáng sẽ xuyên qua da, tác động lên các phân tử bilirubin nằm trong lớp mỡ dưới da để biến đổi các phân tử bilirubin gián tiếp (độc cho não của trẻ) thành các sản phẩm đồng phân hay các sản phẩm quang oxy hoá tan được trong nước, không độc và sẽ được đào thải qua gan (qua mật) và thận (qua nước tiểu). Chiếu đèn được chỉ định sau 24 giờ tuổi để điều trị vàng da tăng bilirubin gián tiếp bệnh lý chưa có triệu chứng tiền nhiễm độc hay nhiễm độc thần kinh. Cũng có thể chiếu đèn dự phòng trong các trường hợp có nguy cơ vàng da sơ sinh như: trẻ non tháng, có bướu huyết thanh, sọ to, trẻ có tán huyết...

Chú ý: Khi chiếu đèn, trẻ được cởi trần, có che kín mắt và bộ phận sinh dục, thường xuyên xoay trở mình cho trẻ để tăng diện tích da tiếp xúc với ánh sáng. Có thể chiếu đèn liên tục hay cách quãng, với trẻ đủ tháng khỏe mạnh, khoảng sau 3 giờ, có thể cho trẻ ra ngoài để bú mẹ hoặc thay tã. Ở nơi có điều kiện, các trẻ vàng da bệnh lý mức độ nhẹ hoặc trung bình thì có thể thực hiện chiếu đèn tại phòng riêng của mẹ có sự theo dõi của bác sĩ chứ không cần ở phòng cách ly. Thực hiện việc chiếu đèn sớm có tác dụng khi trẻ xuất viện sẽ không còn nguy cơ vàng da nặng.

Lời khuyên của thầy thuốc

Như trên đã nói, nếu không phát hiện và điều trị vàng da bệnh lý kịp thời sẽ dẫn đến vàng da nhân, hậu quả là để lại di chứng bại não suốt đời, thậm chí tử vong. Do vậy, tốt nhất để phòng vàng da bệnh lý bằng cách các bà mẹ mang thai cần khám thai định kỳ, đặc biệt, các tháng cuối cần có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý để không bị sinh non; khi sinh cần đến cơ sở y tế để được cán bộ có chuyên môn theo dõi và đỡ đẻ; Đối với các trẻ mới chớm vàng da thì có thể tắm nắng ấm mỗi sáng, nhưng nếu trẻ đã vàng da nhiều thì phải sớm đưa trẻ đi khám ở bác sĩ chuyên khoa Nhi để được điều trị ngay.

BS.Trần Minh Nguyệt

Chú ý: Trên đây là những thông tin  mà các bạn có thể tham khảo, để biết  thêm chi tiết và được hứơng dẫn cụ thể, hãy gọi đến tổng đài tư vấn 19008908 hoặc 19008909 để  nhận được tư vấn trực tiếp từ các bác sĩ.

Tags: thuoc chong phoi nhiem hivthuốc chống phơi nhiễm hiv

Tin liên quan:

Nguồn cachchuabenh.net

Tư vấn sức khỏe 1900 8909

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

 
Design by cachchuabenh.net | Sức khỏe sinh sản | Bệnh truyền nhiễm | Sức khỏe trẻ em